Qua công tác kiểm sát án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 9) nhận thấy vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Phạm Ngọc Kh với bị đơn là ông Phạm Ngọc Ph tại Bản án dân sự phúc thẩm số 182/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố ĐN có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm như sau:
Nguyên đơn ông Phạm Ngọc Kh trình bày: Cụ Phạm V (chết năm 1992) có 02 người vợ: Vợ thứ nhất là cụ Lê Thị N (chết năm 1937), có 02 người con chung là ông Phạm Th (chết năm 2014), bà Phạm Thị L (chết năm 1992). Ông Phạm Th có vợ là bà Nguyễn Thị Nh (chết năm 2020) và 09 người con là các ông, bà: Phạm Thị Nh, Phạm Ngọc Nh, Phạm Ngọc Ch, Phạm Ngọc Đ, Phạm Ngọc Ph1, Nguyễn Văn M, Phạm Thị Ngọc M, Phạm Ngọc Ph2, Phạm Thị Ngọc C (định cư tại Hoa Kỳ, chết năm 2019, có 01 người con nhưng không rõ tin tức). Bà L có 07 người con gồm các ông, bà: Võ Thị X, Võ Thị V, Võ Đức Th, Võ Thị L, Võ T, Võ Thị H, Võ T1. Vợ thứ hai là cụ Nguyễn Thị Th (chết năm 2012) có 08 con chung là các ông, bà: Phạm Ngọc Kh, Phạm Thị Ph (chết năm 2020, có chồng là ông Lương Công Th và 04 người con là các ông, bà: Lương Hoàng Minh T, Lương Hoàng Minh S, Lương Hoàng Mộng L, Lương Hoàng Minh H), Phạm Thị Ch, Phạm Thị L1, Phạm Thị B, Phạm Ngọc Ph, Phạm Thị L2, Phạm Ngọc Th. Ngoài ra, cụ Nguyễn Thị Th còn có 02 người con riêng là các ông, bà: Trần Hữu Ph, Trần N (ông N chết trước cụ Th, có các con là các ông, bà: Trần Thị Kim L, Trần Văn D, Trần Thị Kim L1, Trần Văn A).
Tài sản do cụ V, cụ N, cụ Th tạo lập là diện tích đất khoảng 1.500m2 (theo số liệu của Hội đồng đăng ký ruộng đất năm 1985), tổng diện tích khai hoang thực tế khoảng 2.400m2 tại số 614 đường Trần Quý C, phường Ninh H, thị xã Ninh H, tỉnh Khánh H.
Năm 2015, ông Phạm Ngọc Th (con của cụ V, cụ Th) khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của cụ Th và đã được Tòa án giải quyết công nhận 673m2 đất là phần di sản của cụ Th. Diện tích 1.727m2 đất còn lại là di sản của cụ V, cụ N gồm các thửa số 151, 152, 153, 154, 180. Nay, ông Phạm Ngọc Kh (con của cụ V, cụ Th) yêu cầu Tòa án chia thừa kế đối với phần di sản do cụ V để lại trong diện tích đất trên theo quy định của pháp luật và yêu cầu được nhận bằng hiện vật.
Bị đơn là ông Phạm Ngọc Ph trình bày: Ông Ph nhất trí với trình bày của ông Phạm Ngọc Kh về huyết thống gia đình. Toàn bộ tài sản của cụ V đã được cụ định đoạt khi còn sống theo “Trích yếu Giấy ủy quyền cho phần đất viên gia để con trai xây dựng nhà ở” ngày 20/8/1991 (gọi tắt là Giấy uỷ quyền cho đất ngày 20/8/1991), cụ V đã ủy quyền cho 03 người con trai là ông Phạm Th, Phạm Ngoc Ph, Phạm Ngọc Th diện tích không ghi rõ, nhưng có ghi tứ cận Đông và Bắc giáp đất hợp tác xã, Tây giáp đất thổ mộ họ tộc, Nam giáp thành nhà đang ở; trong giấy có chữ ký của cụ Phạm V, cụ Nguyễn Thị Th và ông Phạm Th và có sự chứng kiến của ông D trưởng thôn. Ông Ph có chuyển nhượng 208m2 đất cho ông A và hiện nay đang quản lý 846,8m2 đất. Ông Ph không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Kh.
II. QÚA TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN
1. Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2020/DS-ST ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh H quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Ngọc Kh về chia di sản thừa kế của cụ Phạm V.
1. Xác định tài sản của cụ V trong khối tài sản chung với cụ N trong 2/3 giá trị căn nhà cấp 4 và quyền sử dụng đất diện tích 1.627,1m2 tại thửa 151 (một phần), thửa 152, 153, 154 (một phần) tờ bản đồ 41, địa chỉ 614 đường Trần Quý C, phường Ninh H, thị xã Ninh H, tỉnh Khánh H.
2. Xác định di sản của cụ V là 1/3 giá trị nhà từ đường và quyền sử dụng đất diện tích 471,1m2 trong đó đất ở đô thị 278,1m2 (Lô 3B, lô 4, một phần lô 5) và đất nông nghiệp cây lâu năm 193,0m2 (một phần lô 5 có 22,4m2, một phần lô 6 có 170,6m2). Tổng giá trị di sản là 11.553.395.000 đồng.
3. Xác định tài sản của cụ Lê Thị N là 600m2 đất trong đó đất ở đô thị 478,3m2 gồm 396,9m2 ký hiệu lô 2A (một phần lô 2) và 90,4m2 ký hiệu lô 3A (một phần lô 3) và đất nông nghiệp cây lâu năm 112,7m2 ký hiệu lô 6A (một phần lô 6) và 1/3 giá trị nhà từ đường.
4. Xác định diện tích đất của cụ V đã cho ông Ph 456,0m2 đất ở đô thị ký hiệu lô 3C (một phần lô 3).
5. Xác định diện tích đất của cụ V đã cho ông Th 100m2 đất ở đô thị ký hiệu lô 2B (một phần lô 2).
6. Chia hiện vật:
a) Chia cho ông Kh 156,9m2 đất giá trị 4.484.646.000 đồng và sở hữu tài sản trên đất gồm căn nhà diện tích 34,1m2.
b) Chia hiện vật cho ông Ph 143,6m2 (loại đất ở) giá trị 1.420.008.000 đồng.
c) Chia hiện vật cho những người thừa kế của ông Phạm Th là các ông, bà: Nguyễn Thị Nh, Phạm Thị Nh, Phạm Ngọc Nh, Phạm Ngọc Đ, Phạm Ngọc Ph1, Nguyễn Văn M, Phạm Thị Ngọc M, Phạm Ngọc Ph2, Phạm Ngọc C 170,6m2 đất nông nghiệp cây lâu năm giá trị 2.625.534.000đ. Ký hiệu lô 6B và căn nhà từ đường diện tích có giá trị di sản (1/3 giá trị căn nhà) 23.207.000đ trên lô 2. Tổng giá trị di sản được hưởng: 2.648.741.000 đồng.
7. Thanh toán kỷ phần:
a) Ông Kh có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần cho các ông, bà: Phạm Thị Ph, Phạm Thị L, Phạm Thị B mỗi người 1.050.308.000 đồng và một phần kỷ phần của cụ Th 282.970.000 đồng
b) Ông Kh có nghĩa vụ thanh toán giá trị công trình nhà, mái che và sân trên lô 5 cho ông Ph 55.574.000 đồng.
c) Ông Ph có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần cho các ông, bà: Phạm Thị Ch, Phạm Thị L, Phạm Ngọc Th mỗi người 1.050.308.000 đồng và một phân kỷ phần của cụ Th 218.332.000 đồng.
d) Các ông, bà: Phạm Thị Nh, Phạm Ngọc Nh, Phạm Ngọc Đ, Phạm Ngọc Ch, Phạm Ngọc Ph1, Nguyễn Văn M, Phạm Thị Ngọc M, Phạm Ngọc Ph2, Phạm Thị Ngọc C giao kỷ phần 1.050.308.000 đồng cho các ông, bà Võ Thị X, Võ Thị V, Võ Đức Th, Võ Thị L, Võ Thị H, Võ T, Võ T1 và một phần giá trị kỷ phần của bà Nguyễn Thị Th 547.981.000 đồng, ông Thọ quản lý phần bà Th.
8. Quản lý tài sản và kỷ phần của người chết:
a) Tạm giao giá trị kỷ phần của cụ Th cho ông Th quản lý (khi ông Kh, ông Ph và những người con của ông Th giao).
b) Tạm giao giá trị kỷ phần của bà Phạm Thị Ph cho ông Lương Công Th và các con gồm Lương Hoàng Minh S, Lương Hoàng Minh T, Lương Hoàng Minh H, Lương Hoàng Mộng L các con bà Ph quản lý (khi ông Kh giao).
c) Tạm giao giá trị kỷ phần của bà Phạm Thị L cho các con của bà L gồm: Võ Thị X, Võ Thị V, Võ Ngọc Th, Võ Thị L, Võ T, Võ Thị H, Võ T1 quản lý.
d) Tạm giao tài sản của cụ N cho các ông, bà: Phạm Thi Nh, Phạm Ngọc Nh, Phạm Ngọc Ch, Phạm Ngọc Đ, Phạm Ngọc Ph1, Nguyễn Văn M, Phạm Thị Ngọc M, Phạm Ngọc Ph2 quản lý.
9. Buộc ông Phạm Ngoc Ph tháo dỡ vật kiến trúc trên lô 3A, lô 6A tài sản của cụ N và Lô 6B phần chia cho những người thừa kế của ông Phạm Th.
10. Không xét các giao dịch giữa ông Phạm Ngọc Ph, bà H với ông A, bà H và giữa các ông, bà A, H với Tr, Th và B, Y vì không có yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các ông, bà: Phạm Ngọc Ph, Phạm Ngọc Đ, Trần Thị Th, Phạm Thị Ch, Phạm Minh Ng, Phạm Minh H có đơn kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 182/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Đ, bà Ch; Chấp nhận kháng cáo của ông Ng, H; Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Ph, bà Th; sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2020/DS-ST ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh H. Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Kh về chia di sản thừa kế của cụ V….
Khác bản án sơ thẩm ở Mục 6. Chia hiện vật:
Chia hiện vật cho ông Phạm Ngọc Ph 170,6m2 (lô 6B) đất nông nghiệp cây lâu năm giá trị 2.625.534.000 đồng và căn nhà từ đường diện tích có giá trị di sản (1/3 giá trị căn nhà) 23.207.000 đồng (trên lô 2), tổng giá trị là 2.648.741.000 đồng.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Phạm Ngọc Đ (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Ngày 21/11/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 19/QĐ-VKS-DS đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Ngày 26/4/2024, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 182/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố ĐN, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
III. VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
1. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định chia hiện vật cho những người thừa kế của ông Phạm Th gồm các ông, bà: Nguyễn Thị Nh, Phạm Thị Nh, Phạm Ngọc Nh, Phạm Ngọc Đ, Phạm Ngọc Ph1, Nguyễn Văn M, Phạm Thị Ngọc M, Phạm Ngọc Ph2, Phạm Thị Ngọc C được quyền sử dụng diện tích 170,6m2 đất nông nghiệp cây lâu năm trị giá 2.625.534.000 đồng (ký hiệu lô 6B). Phần quyết định chia hiện vật này không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
2. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn Ph đề nghị được nhận thừa kế bằng hiện vật đối với diện tích 170,6m2 đất nông nghiệp (lô 6B) và căn nhà từ đường (trên lô 2) và trả giá trị di sản cho các thừa kế của ông Phạm Th. Nguyên đơn ông Kh xác định diện tích 170,6m2 đất nông nghiệp (lô 6B) thuộc phần hưởng của các thừa kế của ông Phạm Th nên không có ý kiến, còn các thừa kế của ông Phạm Th vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm chia 170,6m2 đất nông nghiệp cho các thừa kế của ông Phạm Th là phù hợp, không chấp nhận kháng cáo của anh Đ, nhưng lại sửa Bản án dân sự sơ thẩm về phần này, chia diện tích 170,6m2 đất nông nghiệp cây lâu năm cho bị đơn ông Ph, ông Ph thanh toán giá trị cho các thừa kế của ông Phạm Th là mâu thuẫn giữa phần nhận định và phần Quyết định của Bản án phúc thẩm, vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm và không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế của ông Phạm Th.
3. Hơn nữa, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định căn nhà từ đường diện tích 100m2 trên lô 2 (lô 2B theo Sơ đồ thửa đất phân chia và Trích đo địa chính thửa đất ngày 22/5/2019) là di sản của cụ V, cụ N, cụ Th, mỗi cụ có 1/3 giá trị căn nhà; phần diện tích đất 100m2 (lô 2B) cụ V đã cho ông Th tại Văn bản họp gia đình ngày 08/4/1989 nên không còn là di sản. Tuy nhiên, Toà án cấp phúc thẩm lại quyết định giao căn nhà từ đường diện tích 100m2 trên lô 2B cho ông Ph (bị đơn), trong khi Toà án đã xác định diện tích 100m2 đất (lô 2B) là của ông Phạm Th (nay thuộc quyền sử dụng của các thừa kế của ông Phạm Th) là không thể thi hành án được và không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế của ông Phạm Th.
Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đã không phát hiện ra vi phạm nêu trên của Tòa án để báo cáo, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Qua đó cho thấy, việc nghiên cứu hồ sơ, phát hiện vi phạm của Viện kiểm sát ở cấp phúc thẩm trong vụ án này còn chưa đạt yêu cầu.
Trên đây là vi phạm của Toà án cấp phúc thẩm trong giải quyết vụ án “Tranh chấp tài sản thừa kế”. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 9) thông báo đến các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới để tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát vụ, việc tương tự./