Vi phạm trong thu thập chứng cứ, xác định khối tài sản thừa kế...trong vụ án tranh chấp thừa kế

Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp về thừa kế và hủy quyết định cá biệt”'. Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Mơi; bị đơn là bà Nguyễn Thị Hằng và ông Nguyễn Văn Chiến do Tòa án nhân dân thành phố N giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2021/DSST ngày 12/10/2021 bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để Viện kiểm sát nhân dân địa phương cùng nghiên cứu, rút kinh nghiệm như sau:


1. Nội dung vụ án

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày: Bố, mẹ bà là cụ Nguyễn Văn Giáng (mất năm 1990) và cụ Hồ Thị Hiên (mất năm 1988) có sinh được 04 người con chung đều đang sống gồm: Bà Nguyễn Thị Mai, bà là Nguyễn Thị Mơi, bà Nguyễn Thị Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy. Khi hai cụ mất không đế lại di chúc, để lại di sản là 03 thửa đất tại thôn Trường Tân thuộc tỉnh N, gồm: Thửa đất số 355, tờ bản đồ số 2, diện tích 464 m2 (nay là thửa đất số 90, tờ bản đồ số 24, diện tích 592,7 m2) do bà Thúy và ông Chiến (chồng của bà Thúy) đang sử dụng; thửa đất số 391, tờ bản đồ số 2, diện tích 594 m2 (nay là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 24, diện tích 494,4 m2) và thửa đất số 359, tờ bản đồ số 2, diện tích 1045 m2 (nay là thửa đất số 59, tờ bản đồ số 24, diện tích 1125,6 m2) do bà Hằng đang sử dụng có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Văn Đang và cụ Lê Thị Liễu. Các thửa đất trên đã được ủy ban nhân dân (UBND) huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho ông Chiến và bà Hằng. Bà Nguyễn Thị Mơi khởi kiện đề nghị Tòa án: Chia di sản thừa kế đối với tài sản do bố mẹ để lại là 03 thửa đất trên đang do bà Hằng và bà Thúy, ông Chiến quản lý, sử dụng. Hủy GCNQSDĐ mã số G 512920 ngày 16 tháng 02 năm 1996 cấp cho bà Nguyễn Thị Hằng và GCNQSDĐ mã số G 512906 ngày 16 tháng 02 năm 1996 cấp cho ông Nguyễn Văn Chiến, bà Nguyễn Thị Thúy.

Các bị đơn trong vụ án trình bày: Bà Nguyễn Thị Hằng thống nhất về quan hệ gia đình, huyết thống, họ tên, năm sinh của bố mẹ, các chị em đúng như nguyên đơn khai. Bố của bà (cụ Giáng) và mẹ của bà (cụ Hiên) đã mất, không để lại di chúc. Hai thửa đất bà đang ở và sử dụng có nguồn gốc của cụ Nguyễn Vãn Đang và cụ Lê Thị Liễu (là anh trai của cụ Giáng) để lại. Cụ Đang không biết mất năm nào, sau khi cụ Liễu mất năm 1976 thì bà Hằng đến ở và sử dụng nhà đất đến nay. Năm 1982, cụ Giáng đến ở cùng đến khi mất. Năm 1996, bà Hằng làm thủ tục và được UBND huyện cấp GCNQSDĐ. Cụ Đang và cụ Liễu có 01 người con gái là bà Muộn nay khoảng 90 tuổi, đã lâu không về quê. Hai thửa đất bà Hằng đang ở không phải là di sản thừa kế, đã được cấp GCNQSDĐ cho bà nên bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mơi.

Ỏng Nguyễn Văn Chiến và bà Nguyễn Thị Thúy trình bày: Ồng Chiến, bà Thúy kết hôn với nhau năm 1985. Năm 1986, cụ Giáng và cụ Hiên là bố mẹ của bà Thúy có nói: “Ồng bà có 02 thửa đất, có 02 chị gái đã lấy chồng, bà Hằng tàn tật, không lấy chồng cho ở 01 thửa, còn 01 thửa cho vợ chồng ông bà”. Vợ chồng ông Chiến, bà Thúy đến ở cùng cụ Hiên không làm thủ tục gì, khi đến ở chỉ có 01 ngôi nhà ngói nhỏ, ông Chiến, bà Thúy đã ba lần thay sửa; bà Mơi, cụ Giáng đều tham gia không có ý kiến gì. Năm 1988, cụ Hiên mất; ông Chiến và bà Thúy sử dụng đất đến nay. Năm 1996, ông Chiến, bà Thúy kê khai đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ. Vì vậy, việc bà Nguyễn Thị Mơi khởi kiện chia thừa kế và yêu cầu hủy GCNQSDĐ của ông Chiến, bà Thúy thì ông bà không đồng ý.

2. Quá trình giải quyết của Tòa án

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2021/DS-ST ngày 12/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh N đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mơi về việc yêu cầu chia di sản thừa kế và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Phân chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Giáng và cụ Hồ Thị Hiên là thửa đất số 391, tờ bản đồ số 2, diện tích 594 m2 (nay là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 24, diên tích 494,4 m2), thửa đất số 359, tờ bản đồ số 2, diện tích 1045 m2 (nay là thửa đất số 59, tờ bản đồ số 24, diện tích 1125,6 m2) và thửa đất số 355, tờ bản đồ số 2, diện tích 464 m2 (nay là thửa đất số 90, tờ bản đồ số 24, diện tích 592,7 m2) tại thôn Trường Tân thuộc tỉnh N có tổng giá trị 3.204.669.500 đồng (Ba tỷ, hai trăm linh tư triệu, sáu trăm sáu mươi chín nghìn, năm trăm đồng).

- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mã số G 512920 do ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh N cấp ngày 16 tháng 02 năm 1996 mang tên bà Nguyễn Thị Hằng liên quan đến thửa đất số 359, tờ bản đồ số 2, diện tích 1045 m2 (nay là thửa đất số 59, tờ bản đồ số 24, diện tích 1125,6 m2) tại thôn Trường Tân thuộc tỉnh N và quyết định cấp đất liên quan.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 15/10/2021, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Mơi có đơn kháng cáo đề nghị chia di sản là thửa đất số 355, tờ bản đồ số 2 làm 4 phần chia đều 4 chị em; đối với các thửa đất 359 và 391 tờ bản đồ số 2 thì chia làm 5 phần, 1 phần làm nhà thờ còn 4 phần còn lại chia đều cho 4 chị em; bà Mơi không đồng ý nhận tiền mà yêu cầu được nhận bằng hiện vật.

Ngày 18/10/2021, bị đơn là bà Nguyễn Thị Hằng có đơn kháng cáo cho rằng di sản của cụ Nguyễn Văn Giáng và cụ Hồ Thị Hiên để lại chỉ có thửa đất số 355, tờ bản đồ số 2 diện tích 464m2 hiện ông Chiến, bà Thúy đang quản lý, sử dụng. Bà đề nghị Tòa án chia thừa kế theo quy định pháp luật.

Ngày 11/11/2021, bị đơn là ông Nguyễn Văn Chiến có đơn kháng cáo cho rằng diện tích đất tại thửa số 355, tờ bản đồ số 2 là do Nhà nước cấp cho gia đình ông nên ông không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của bà Mơi.

Ngày 26/10/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 1973/QĐKNPT-VKS-DS đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ liên quan đến nguồn gốc các thửa đất 359 và 391 tờ bản đồ số 2 và xác định hai thửa đất này là di sản thừa kế của cụ Giáng, cụ Hiên là chưa đủ căn cứ; không lấy lời khai cùa bà Muộn là con chung của cụ Đang, cụ Liễu; vi phạm quy định về án phí, không buộc bà Thúy phải chịu án phí đối với phần trích công sức.

Bản án dân sự phúc thẩm số 336/2023/DSPT ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2021/DS- ST ngày 12/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh N, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh N giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

1. Về việc thu thập chứng cứ

Nguyên đơn và bị đơn khai thống nhất với nhau về nguồn gốc 2 thửa đất số 59 và 72 cùng tờ bản đồ số 24 tại thôn Trường Tân thuộc tỉnh N là của cụ Nguyễn Văn Đang và cụ Lê Thị Liễu, nên theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là sự kiện pháp lý không cần phải chứng minh. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện việc xác minh làm rõ có hay không việc chuyến nhượng, tặng cho từ cụ Đang, cụ Liễu sang cho cụ Giáng, cụ Hiên, không thu thập chứng cứ xem cụ Đang, cụ Liễu có người thừa kế hay không? Không tiến hành xác minh lấy lời khai những người thừa kế của cụ Đang, cụ Liễu, cụ thể là bà Nguyễn Thị Muộn là con chung của cụ Đang, cụ Liễu mà nhận định do cụ Đang, cụ Liễu đã chết không có con trai (con gái là bà Muộn đã lấy chồng, đi khỏi địa phương) nên giao lại cho cụ Giáng quản lý theo phong tục tập quán địa phương là chưa đầy đủ, không đảm bảo căn cứ để giải quyết vụ án.

2. Về việc xác định khối di sản thừa kế

Đối với 2 thửa đất số 59 và 72 cùng tờ bản đồ số 24 tại thôn Trường Tân, thuộc tỉnh N: Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xác minh, lấy lời khai của những người liên quan để xác định nguồn gốc của hai thửa đất này mà đã nhận định đây là di sản của cụ Nguyễn Văn Giáng và cụ Hồ Thị Hiên là chưa đủ căn cứ vững chắc.

Đối với thửa số 355, tờ bản đồ số 2 (nay là thửa 90, tờ bản đồ số 24): Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là di sản do cụ Giáng, cụ Hiên để lại là có cơ sở. Tuy nhiên, theo hồ sơ địa chính do UBND xã cung cấp thì diện tích thửa đất số 355, tờ bản đồ số 2 (nay là thửa 90, tờ bản đồ số 24) là 464m2, nhưng theo kết quả đo đạc, thẩm định tại chỗ thì diện tích hiện trạng của thửa đất là 592,7m2 tăng lên so với diện tích được cấp năm 1996 là 128,7m2. Tòa án cấp sơ thẩm, không làm rõ diện tích đất tăng thêm là do đâu, mà xác định toàn bộ diện tích 592,7m2 đất là di sản thừa kế của cụ Giáng, cụ Hiên để lại là chưa đủ căn cứ.

3. Về việc dành quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng do bà Hằng không cung cấp được địa chỉ của bà Nguyễn Thị Muộn, UBND xã không lưu trữ thông tin bà Muộn rời khỏi địa phương khi nào, cư trú tại đâu và nhận định dành quyền khởi kiện cho bà Nguyễn Thị Muộn bằng vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu là không đúng pháp luật, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đang, cụ Liễu, cụ thể là bà Muộn.

Những vi phạm nêu trên, Toà án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, phải hủy án để giải quyết lại theo quy định của pháp luật. Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu lên để rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản nói riêng./.


Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}