Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” giữa người khởi kiện là ông Nguyễn P. H và người bị kiện là Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B theo kết quả giải quyết tại Bản án hành chính phúc thẩm số 04/2024/HC-PT ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:
I. NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ Bản án số 145/2020/DS-PT ngày 01/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã có hiệu lực pháp luật, thể hiện nội dung công nhận sự thỏa thuận của ông Nguyễn P. H và ông Phạm V. P đồng sở hữu đối với quyền sử dụng tại thửa đất số 09, tờ bản đồ số 58. Theo đó, Chi cục thi hành án dân sự thành phố B đã ra quyết định thi hành án và yêu cầu ông Nguyễn P. H giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 do UBND thành phố B cấp ngày 26/12/2005 cho hộ ông Nguyễn V. Th và bà Nguyễn T. T (đã được xác nhận đăng ký biến động sang tên cho ông Nguyễn P. H ngày 06/6/2016) nhưng ông H không thực hiện. Do đó, Chi cục thi hành án dân sự thành phố B có công văn đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới.
Căn cứ công văn của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, ngày 01/02/2024, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B đã ra Thông báo số 309/TB-CNBMT yêu cầu ông H giao nộp bản gốc của Giấy chứng nhận. Ông H đã nhận thông báo nhưng không thực hiện nên ngày 25/3/2024 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B ban hành Quyết định số 27/QĐ-CNBMT về việc hủy giá trị pháp lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 nói trên.
Ông H cho rằng Quyết định số 27 là trái pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của ông. Vì vậy, ông đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân thành phố B, đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 27/QĐ-CNBMT ngày 25/3/2024 của Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký dất đai thành phố B về hủy giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313.
II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN
- Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2024/HC-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn P. H.
- Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện – ông Trần C. T kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án và xét xử vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.
- Bản án hành chính phúc thẩm số 04/2024/HC-PT ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần C.T; giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Ngày 27/02/2025, người khởi kiện ông Nguyễn P. H có đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 04/2024/HC-PT ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ theo hướng:
Hủy Bản án hành chính phúc thẩm và hủy Bản án hành chính sơ thẩm để xét xử lại theo quy định của pháp luật.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
1. Tại Mục [2.1] phần nhận định của Bản án hành chính phúc thẩm nhận định Quyết định hành chính số 27/QĐ-CNBMT ngày 25/3/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B ban hành là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật là không đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền.
Tại khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai 2013 quy định: “Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai”.
Tại khoản 7 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều này mà người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không giao nộp Giấy chứng nhận thì Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp”.
Theo các quy định viện dẫn ở trên thì Quyết định số 27 này phải do UBND thành phố B ký mới đúng thẩm quyền. Sau khi UBND thành phố B ban hành Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông Nguyễn P. H không giao nộp thì Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đ có trách nhiệm báo cáo lại với UBND thành phố để quyết định hủy Giấy chứng nhận đó.
Trong vụ án này, việc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B ban hành Quyết định số 27/QĐ-CNBMT ngày 25/3/2024 về việc hủy giá trị pháp lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 nêu trên là sai thẩm quyền. Dẫn tới việc Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B đứng tên ký Quyết định là không đúng.
2. Tòa án nhân dân thành phố B và Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã có sai sót trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng.
Tại mục 19 Công văn số 207/TANDTC-PC ngày 30/10/2024 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong công tác xét xử vụ án hành chính:
“... Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai là đơn vị phụ thuộc Văn phòng đăng ký đất đai, thực hiện một phần chức năng của Văn phòng đăng ký đất đai trong phạm vi được ủy quyền; Văn phòng đăng ký đất đai chịu trách nhiệm trước việc thực hiện nhiệm vụ được giao của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai trong phạm vi được ủy quyền. Do đó, cần phải xác định người bị kiện là Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Tại khoản 9 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện”.
Vì vậy, nếu đương sự khởi kiện Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thì Tòa án phải hướng dẫn đương sự sửa đổi đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 122 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 để khởi kiện Văn phòng đăng ký đất đai.
Theo đó, Tòa án nhân dân thành phố B và Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã có sai sót trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng. Trong trường hợp này, Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đ mới là người bị kiện chứ không phải là Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B như Tòa án hai cấp đã xác định.
Trên đây là những vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ trong việc giải quyết vụ án hành chính nêu trên mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ không phát hiện kịp thời. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo đến Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố trong toàn Ngành cùng rút kinh nghiệm khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính tương tự./.
