Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế tài sản, công nhận hợp đồng chuyển đổi QSD đất, tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển đổi QSD đất

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế tài sản, công nhận hợp đồng chuyển đổi QSD đất, tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển đổi QSD đất”, giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Kiện, sinh năm 1944 và bị đơn là ông Trần Văn Hùng, sinh năm 1966, đều trú tại: Khu phố CG, phường ĐN, thành phố TS, tỉnh BN. Vụ án được Tòa án nhân dân thành phố TS xét xử sơ thẩm và bị Tòa án nhân dân tỉnh BN xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị sửa bản án sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BN cần thông báo rút kinh nghiệm như sau:

1. Tóm tắt nội dung vụ án

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 13/DS2-PT ngày 12/12/1995, của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc đã quyết định chia đất ao của cụ Thành và cụ Lê ( địa chỉ hiện nay tại khu phố CG, phường ĐN, thành phố TS, tỉnh BN) cho các con sử dụng, cụ thể: Ông Nguyễn Văn Kiện 264m2, bà Nguyễn Thị Lợi 600m2, ông Nguyễn Văn Tựu 168m2. Do bà Lợi ( hiện đã chết) không có chồng con và sống cùng ông Kiện, năm 1999 bà Lợi đã có văn bản chuyển quyền sử dụng toàn bộ diện tích 600m2 đất ao cho ông Kiện, văn bản có chữ kí xác nhận của bà Nguyễn Thị Lịch và bà Nguyễn Thị Sự (là em gái ruột của bà Lợi, ông Kiện). Sau đó ông Kiện đã nhập diện tích đất ao của ông cùng với bà Lợi thành một thửa có diện tích đo đạc chính quy là 778,8m2 và tân lấp thành đất vườn. Toàn bộ diện tích đất này, ông Kiện chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Năm 2016 ông Kiện đổi cho ông Trần Văn Hùng một phần diện tích đất vườn 109m2 (tại vị trí bà Lợi được chia), ông Hùng đổi lại cho ông Kiện diện tích đất ở là 43,6m2 thuộc thửa đất số 276, tờ bản đồ số 78 ở khu phố CG, phường ĐN, thành phố TS. Việc đổi đất được hai bên gia đình kí Hợp đồng chuyển đổi QSD đất ngày 01/3/2016 và không có công chứng, chứng thực, các bên đã nhận đất của nhau và ông Hùng xây dựng nhà 02 tầng kiên cố trên phần diện tích đất 109m2. Còn phần đất 43,6m2, ông Kiện nhận của ông Hùng sau đó đã được làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên anh Nguyễn Thạch Anh con trai ông Kiện. 

Năm 2019, ông Kiện tiếp tục chuyển nhượng đất cho người khác nên diện tích đất vườn còn lại là 440m2, đến ngày 23/11/2021, ông Kiện ký tiếp văn bản thỏa thuận giao kết chuyển nhượng 110m2 đất vườn cho chị Nguyễn Thị Thủy và ông Kiện đã nhận tiền chuyển nhượng của chị Thủy. Về phần đất vườn còn lại của ông Kiện, vào tháng 03/2022 ông Hùng đã lấn chiếm phá dỡ một phần tường bao đất và đóng cọc, dùng tấm tôn quây lại diện tích 236m2 đất, bít lại cửa ra vào khu đất vườn của ông Kiện đã xây dựng. Do vậy, ông Kiện khởi kiện yêu cầu TAND thành phố TS buộc ông Hùng trả lại ông Kiện 236m2 đất vườn; buộc ông Hùng tháo dỡ, di dời các tài sản ra khỏi phần diện tích đất lấn chiếm. Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có yêu cầu như sau:

- Bà Sự có yêu cầu độc lập chia thừa kế đối với phần di sản của bà Lợi để lại là 600m2 do ông Kiện sử dụng.

- Ông Hùng có yêu cầu đề nghị công nhận Hợp đồng chuyển đổi QSD đất ngày 01/3/2016, giữa gia đình ông Kiện và gia đình ông Hùng.

- Chị Nguyễn Thị Liên Hương ( con gái ông Kiện) có yêu cầu độc lập: Yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển đổi QSD đất ngày 01/3/2016, giữa gia đình ông Kiện với gia đình ông Hùng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

2. Quá trình giải quyết vụ án

* Tại Bản án số 12/2024/DSST ngày 03/4/2024, của Tòa án nhân dân thành phố TS tuyên xử: 

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Kiện, buộc gia đình ông Hùng trả lại quyền sử dụng diện tích đất vườn 236m2 cho gia đình ông Kiện và tháo dỡ, di dời các tài sản trên đất.

- Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hùng về việc công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất lập ngày 01/3/2016 giữa gia đình ông Kiện với gia đình ông Hùng. Gia đình ông Hùng được quyền sử dụng diện tích 109m2 đất ao (vườn).

- Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà Sự đối với diện tích đất 600m2 của bà Lợi.

- Không chấp nhận yêu cầu của chị Hương về việc tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất ngày 01/3/2016, giữa gia đình ông Kiện và gia đình ông Hùng. 

- Xác nhận gia đình ông Kiện được quyền sử dụng diện tích đất vườn còn lại của bà Lợi là 440m2.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

- Về án phí DSST: Ông Hùng phải chịu 300.000đ, chị Hương phải chịu 600.000đ. Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

* Ngày 09/4/2024, bà Nguyễn Thị Sự có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm đề nghị chấp nhận yêu cầu chia di sản phần đất ao 600m2 mà bà Lợi để lại theo quy định pháp luật.

* Ngày 02/5/2024, Viện KSND tỉnh BN ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS-DS.

* Ngày 09/9/2024, Tòa án nhân dân tỉnh BN xét xử phúc thẩm vụ án, tuyên xử: Chấp nhận kháng nghị số 04/QĐ-VKS-DS Ngày 02/5/2024, của Viện KSND tỉnh BN; Sửa Bản án sơ thẩm số 12/2023/DSST ngày 03/4/2024, của Tòa án nhân dân thành phố TS, về việc tuyên án và tuyên chịu án phí DSST. 

3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

- Bản án sơ thẩm vi phạm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, tuyên xử vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. 

Theo Đơn khởi kiện của ông Kiện yêu cầu gia đình ông Hùng trả lại diện tích đất vườn 236m2 và tháo dỡ toàn bộ tài sản xây trái phép trên đất. Bà Sự có yêu cầu độc lập chia thừa kế 600m2 đất của bà Lợi để lại. Ông Hùng có yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển đổi QSD đất ngày 01/3/2016, giữa gia đình ông Kiện và gia đình ông Hùng. Chị Hương (con gái ông Kiện) có yêu cầu độc lập tuyên hợp đồng chuyển đổi QSD đất ngày 01/3/2016 vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu. 

Như vậy, các đương sự đều không có yêu cầu xem xét phần diện tích đất vườn của bà Lợi do ông Kiện sử dụng còn lại là 440m2; gia đình ông Kiện cũng không có yêu cầu đề nghị công nhận QSD diện tích đất 440m2. Hơn nữa, trong diện tích 440m2 Tòa án sơ thẩm xác nhận cho gia đình ông Kiện được quyền sử dụng, thì có 110m2 đất đã được gia đình ông Kiện lập Văn bản thỏa thuận giao kết chuyển nhượng cho chị Thủy ngày 23/11/2021 và nhận tiền chuyển nhượng đất của chị Thủy. 

Vì vậy, Bản án sơ thẩm tuyên xác nhận gia đình ông Kiện được quyền sử dụng diện tích đất vườn còn lại của bà Lợi là 440m2; Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dung đất theo quy định của pháp luật về đất đai là giải quyết không đúng yêu cầu của đương sự và vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của chị Thủy.

-  Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự, chưa xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ 

Tòa án nhân dânthành phố TS thụ lý vụ án với quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế tài sản, công nhận hợp đồng chuyển đổi QSD đất, tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển đổi QSD đất”. Như vậy, đối tượng khởi kiện là quyền sử dụng đất và tài sản thừa kế cũng là quyền sử dụng đất nên phải xác định giá trị của đối tượng tranh chấp. Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không thảo thuận về giá trị tài sản đang tranh chấp. Nhưng Tòa án không hướng dẫn các đương sự làm đơn đề nghị định giá tài sản và không tiến hành định giá phần diện tích đất tranh chấp và yêu cầu chia thừa kế để làm căn cứ giải quyết vụ án và xác định việc chịu án phí DSST đúng theo quy định pháp luật.

Quá trình giải quyết phúc thẩm vụ án, thực hiện nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục vi phạm tiến hành định giá tài sản tranh chấp. 

- Bản án vi phạm Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, về tuyên chịu án phí DSST không đúng quy định pháp luật

Chị Hương có yêu cầu độc lập và không được Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất ngày 01/3/2016 nên chị Hương chỉ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc chị Hương phải chịu 600.000đ án phí dân sự sơ thẩm là không đúng.

Bản án sơ thẩm nhận định: Yêu cầu chia thừa kế của bà Sự không được chấp nhận, nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; ông Kiện phải chịu án phí về yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển đổi QSD đất ngày 01/3/2016 của ông Hùng được chấp nhận. Do bà Sự, ông Kiện là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng phần quyết định của Bản án không tuyên miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Sự và ông Kiện là thiếu sót.

Với những vi phạm nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm, Viện KSND thành phố TS sau khi nhận, kiểm sát bản án đã phát hiện đầy đủ, chính xác vi phạm và kịp thời báo cáo Viện KSND tỉnh BN thực hiện kháng nghị phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát và sửa bản án sơ thẩm. Phòng 9, Viện KSND tỉnh BN thông báo để Viện KSND huyện, thị xã, thành phố nghiên cứu rút kinh nghiệm và áp dụng trong trường hợp tương tự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm các vụ việc dân sự./.


Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}