Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất

Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kinh nghiệm đối với vụ án “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Lê Hiếu Ngh, trú tại số 2 tổ 33, khóm MT, phường MP, thành phố CL, tỉnh ĐT; bà Lê Trung Ngh, trú tại số 63/35 NB, Ph 1, Quận M, Thành phố X với bị đơn bà Trần Thị Minh L, trú tại số 200/1/31 BL, Phường N, quận BT, Thành phố X và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm 11 người.

Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, chia thừa kế và hủy giây chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở

1. Nội dung vụ án:

Cụ Lê Văn M và cụ Trương Ngọc Đ kết hôn năm 1960; hai cụ không có con chung và nhận bà Lê Hiếu Ngh và Lê Trung Ng làm con nuôi (có làm giấy khai sinh ngày 25/9/1968). Trước khi kết hôn cụ Đ có tạo lập được căn nhà số 515-517 NT, Phường M quận, quận Y, thành phố X (sau đây viêt tăt là căn nhà số 515-517) theo Bằng khoán điền thổ số 1058, 1059 do Phủ toàn quyền Đồng Dương cấp ngày 30/01/1951. Năm 1997 cụ Đ chết. Sau khi cụ Đ chết cụ M đã lập thủ tục kế khai di sản với nội dung cụ Đ và cụ M không có con đẻ và con nuôi.

Cụ M đã thỏa thuận bán căn nhà trên cho cho bà Trần Thị L, bà Trần Thị Cẩm V (bà V là cháu ruột cụ M) với giá 2000 lượng vàng SJC. Ngày 12/10/2007 tại phòng công chứng cụ M đã kí Hợp đồng mua bán nhà ở số 1860/HĐ-MBN để bán căn nhà số 515-517 cho bà L, bà V với giá ghi trong Hợp đồng là 3,5 tỷ đồng. Thực tế chỉ có bà L trả vàng cho cụ M còn bà V là cháu ruột nên được cụ M cho 1/2 căn nhà nói trên. Trước khi kí Hợp đồng số 1860/HĐ-MBN, ngày 10/8/2007 bà L đã đặt cọc cho cụ M 900 lượng vàng SJC và ngày 12/10/2007 giao nốt 100 lượng vàng SJC. Sau khi kí Hợp đồng mua bán nhà bà L và bà V đã làm thủ tục và được Ủy ban nhân dân Quận M cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 14/11/2008 với tên chủ sở hữu là bà Trần Thị cẩm V và bà Trần Thị Minh L. Quá trình giải quyết vụ án bà L xuất trình Tờ di chúc lập ngày 24/4/1997 của cụ Trương Ngọc Đ nhưng sau đó xin rút không xem xét tờ di chúc này.

Nguyên đơn bà Trung Ngh và Hiếu Ngh cho rằng cụ M đã làm giả giấy xác nhận cụ M và cụ Đ không có con đẻ và con nuôi để bán căn nhà 515-517 nên hai bà khởi kiện yêu cầu:

Tuyên bố di chúc do cụ Đ lập ngày 24/4/1997 là không hợp pháp.

Tuyên bố Hợp đồng mua bán nhà ở số 1860/HĐ-MBN giữa cụ Lê Văn M với bà Trần Thị Minh L và bà Trần Thị cẩm V vô hiệu.

Hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ờ, quyền sử dụng đất ở cấp ngày 14/11/2008 cho bà Trần Thị Minh L, bà Trần Thị cẩm V.

Buộc Công ty TNHH Thực phẩm Thương mại ĐP và những người đang ở tại căn nhà số 515-517 trả lại nhà cho những người thừa kế của cụ E) là bà Hiếu Ngh, Trung Ngh đồng thời hai bà có quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để lập thủ tục khai nhận di sản thừa kế và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo qui định pháp luật.

Nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu một phần thì đề nghị Tòa án công nhận cho hai bà được quyền hưởng phần tài sản thuộc sở hữu chung trong khối di sản do cụ Đ để lại chưa chia; hai bà đồng ý hoàn trả lại tiền cho bị đơn đối phần thừa kế cụ M được hưởng nếu bị đơn chứng minh được có việc giao nhận tiền.

Nếu được nhận nhà hai bà đồng ý hoàn trả lại chi phí sửa chữa nhà cho ông Tăng D và hỗ trợ cho bà Lê Thị s, bà Lạc H mỗi người 20.000.000 đồng.

Bị đơn bà L và bà V: Không đồng ý với các yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà số 515-517 giữa cụ M với hai bà là hợp pháp, đồng ý hoàn trả chi phí sửa chữa nhà cho ông Tăng D và hỗ trợ cho bà Lê Thị s, bà Lạc H. Nếu Tòa án tuyên hợp đồng mua bán nhà ngày 12/10/2007 vô hiệu toàn bộ thì bà Trung Ngh, bà Hiêu Ngh có nghĩa vụ thanh toán cho bà L 1.000 lượng vàng SJC và thanh toán cho bà V 1/2 giá trị căn nhà theo giá thị trường hiện nay.

Bà Lê Thị s và bà H là người được cho ở nhờ trong căn nhà trên có yêu cầu hỗ trợ chi phí để tạo lập chỗ ở mới.

Công ty TNHH Thực phẩm thương mại ĐP kí Hợp đồng thuê nhà với bà L và bà V xác định không có tranh chấp trong vụ án này và muốn được tiếp tục thuê nhà.

Ông Tăng D cho rằng ông là con nuôi cụ M, cụ Đ được 2 cụ thừa nhận và cho sinh sống tại nhà số 515-517; ông cũng xuất trình một Giấy Khai sinh (photocopy) mang tên Lê Chí Ngh và cho rằng đây là con nuôi của hai cụ. Ông có bỏ ra số tiền 70.000.000 đồng để sửa chữa nhà. Ông yêu cầu người nhận nhà phải hoàn trả cho ông số tiền 80.000.000 đồng sửa chữa nhà.

Bà Từ Tiểu B là nhân viên của Công ty TNHH thực phẩm thương mại ĐP kí Hợp đồng thuê nhà với bà L và bà V và yêu cầu mọi tranh chấp đến việc thuê nhà do Công ty giải quyết.

2. Quá trình giải quyết vụ án:

Bản án dân sự sơ thẩm sổ 1146/2017/DSST ngày 01/9/2017 của Tòa cấp sơ thẩm quyết định (tóm tắt)

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Trung Ngh, bà Lê Hiếu Ngh.

Không chấp nhận ỵêu cầu của bà Trần Thị Minh L và bà Trần Thị cẩm V yêu cầu công nhận Hợp đồng mua bán nhà ở số 1860/HĐ-MBN .

Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Minh L yêu cầu những người thừa kế của cụ M thanh toán lại số tiền cụ M đã nhận. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Cẩm V yêu cầu những người thừa kế của cụ M thanh toán 1/2 giá trị căn nhà.

2. Tuyên bố Hợp đồng mua bán nhà ở số 1860/HĐ-MBN giữa cụ Lê Văn M với bà Trần Thị Minh L và bà Trần Thị cẩm V đối với toàn bộ căn nhà số 515-517 là vô hiệu.

3. Tuyên bố Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ngày 10/8/2007 được ký giữa cụ Lê Văn M với bà Trần Thị Minh L đối với căn nhà tọa lạc số 515-517 là vô hiệu.

4. Hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ sổ 515-517 được cấp giấy chứng nhận ngày 14/11/2008, đứng tên bà Trần Thị Cẩm V và bà Trần Thị Minh L

5. Xác định tài sản căn nhà số 515-517 là tài sản chung của cụ Trương Ngọc Đ và cụ Lê Vãn M có giá trị là 30.860.875.000 đồng

6. Xác định di sản của bà Trương Ngọc Đ chết để lại là 1/2 cân nhà số 515- 517 có giá trị là 15.430.437.000 đồng.

7. Xác định ông Lê Văn M, bà Lê Trung Ngh và bà Lê Hiếu Ng là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đ và mỗi người được hưởng 1/6 giá trị căn nhà số 515-517 là 5.143.479.000 đồng.

8. Xác định di sản của cụ Lê Văn M chết để lại là 1/2 căn nhà số 515-517 có giá trị là 15.430.437.000 đồng và 1/6 giá trị căn nhà số 515-517 do cụ M hưởng từ di sản của bà Đ là 5.143.479.000 đồng. Tổng cộng di sản của cụ M chết để lại là 2/3 căn nhà số 515-517 có giá trị là 20.573.917.000 đồng.

9. Những người thừa kế của cụ M là bà Lê Trung Ngh và bà Lê Hiếu Ngh có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Minh L số tiền 1.000 lượng vàng SJC (qui đổi ra tiền đồng là 36.340.000.000 đồng) nhưng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả trong phạm vi di sản của cụ M là 2/3 giá trị căn nhà số 515-517 là 20.573.917.000 đồng trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

10. Trường hợp sau này bà L chứng minh được cụ M còn có các tài sản khác để lại thì bà L có quyền yêu cầu giải quyết số tiền còn lại theo qui định của pháp luật.

11. Những người thừa kế của cụ M và cụ Đ là bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh có trách nhiệm trả cho ông Tăng D số tiền sửa chữa nhà 70.000.000 đồng.

12. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh hỗ trợ cho bà Lạc H và bà Lê Thị s dọn ra khỏi nhà số 515-517 mỗi người 20.000.000 đồng.

13. Sau khi bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh thanh toán số tiền nêu trên cho bà L, ông D và hỗ trợ cho bà H, bà s thì bà Trung Ngh, bà Hiếu Ngh được quyền liên hệ các cơ quan chức năng có thẩm quyền hợp thức hóa quyền sở hữu nhà ở và quyên sử dụng đât ở đứng tên bà Lê Trung Ngh, bà Lê Hiếu Ngh đối với nhà đất tại so 515- 517 theo qui định của pháp luật.

14. Trường hợp hết thời hạn 3 tháng nêu trên bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh chưa thi hành số tiền cho bà L, ông D, bà H, bà s thi giao cho Cơ quan thi hành an dân sự có thẩm quyền phát mãi nhà, đất tọa lạc tại số 515-517 sau khi trừ chi phí, lệ phí phát mãi và số tiền ông Tăng D sửa chữa nhà là 70.000.000đồng, số còn lại sẽ chia và thanh toán theo tỷ lệ như sau: Bà Trung Ngh, bà Hiêu Ngh mỗi người được hưởng giá trị là 1/6 căn nhà và bà Trần Thị Minh L được thanh toán 2/3 giá trị căn nhà là di sản của cụ M.

15. Buộc Công ty TNHH Thực phẩm Thương mại ĐP, bà Từ Tiểu B và những người đang cư ngụ tại căn nhà dọn ra khỏi nhà và giao trả lại căn nhà số 515-517 cho bà Trung Ngh, bà Hiếu Ngh trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

16. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Minh L hồ trợ cho bà Lạc H và bà Lê Thị s dọn ra khỏi nhà số 515-517 mỗi người 100.000.000 đồng.

17. Đình chỉ đối với yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu xem xét tờ di chúc do cụ Trương Ngọc Đ lập ngày 24/4/1997.

18. Công ty TNHH Thực phẩm Thương mại ĐP, bà Tư Tiểu B và bà V, bà L có quyền khởi kiện hợp đồng thuê nhà tại số 515 -517 bằng vụ án khác nếu có yêu cầu.

Bản án dân sư phúc thẩm sổ 393/2019/DS-PT ngày 09/9/2019 của Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: giữ nguyên các nội dung 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 10, 11, 12, 16, 17, 18 trong quyết định của bản án sơ thẩm, trên cơ sở thỏa thuận của bà L với bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh, quyết định sửa bản án sơ thẩm:

1. Bà Trung Ngh, bà Hiếu Ngh đồng ý nhận kỷ phần thừa kế của hai bà trong khối di sản là căn nhà số 515-517 cụ Đ để lại trị giá 12 ty đồng và đồng ý nhận phần giá trị này từ bà L để giao cho bà L được đứng tên quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đối với căn nhà số 515-517.

2. Bà Trần Thị Minh L có nghĩa vụ giao trả lại cho bà Trung Ngh, Hiếu Ngh tổng số tiền trong kỷ phần thừa kế của hai bà là 12 tỷ

3. Sau khi bà Trần Thị Minh L thực hiện thanh toán xong các khoán tiền mà bà L có nghĩa vụ thực hiện cho bà Trung Ngh, Hiếu Ngh, bà H, bà s thì bà Trần Thị Minh L được quyền liên hệ các cơ quan chức năng có thẩm quyền hợp thức hóa quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đứng tên bà Trần Thị Minh L đổi với căn nhà số 515-517 theo qui định pháp luật.

4. Bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh đồng ý để cho Công ty TNHH Thực phẩm Thương mại ĐP, bà Từ Tiêu B và những người đang cư ngụ tại căn nhà di dời, dọn ra khỏi nhà và giao trả lại căn nhà trực tiếp cho bà Trần Thị Minh L trong thời hạn 3 tháng kế từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

5. Bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh đồng ý nhận phần thừa kế di sản cũa cụ Đ là 12 tỷ đồng từ bà Trần Thị Minh L và có trách nhiệm chia lại kỷ phần thừa kế theo pháp luật cho người con thứ ba nêu có và được pháp luật công nhận.

Ngày ,29/10/2019 bà Trần Thị Cẩm V có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Ngày 25/6/2020 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 52/2020/KN-DS kháng nghị giám đốc thấm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo huớng hủy bản án dân sự phúc thấm và bản án dân sự so thẩm.

Quyết định giám đốc thẩm số 04/2021/pS-GĐT ngày 09/3/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 393/2019/DS-PT ngày 09/9/2019, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 1146/2017/DS-ST ngày 01/9/2017 giao Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại.

3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

3.1. Về tài sản mà cụ Đ để lại:

Theo bằng khoán điền thổ số 1058, 1059 Chợ Lớn, Đồng Khánh do Phủ toàn quyền Đồng Dương cấp ngày 30/01/1951 nhà số 515-517 đứng tên cụ Trương Ngọc Đ. Cụ Đ, cụ M kết hôn năm 1960, theo qui định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 căn nhà trên là tài sản chung của cụ Đ, cụ M; do đó xác định 14 căn nhà thuộc quyền sở hữu của cụ M, Vz căn nhà là tài sản của của cụ Đ và là di sản thừa kế.

3.2. Về hàng thừa kế của cụ Đ:

Cụ M, cụ Đ nhận bà Hiếu Ngh, bà Trung Ngh làm con nuôi (có làm giấy khai sinh ngày 25/9/196) do đó xác định hai bà là con nuôi cụ M, cụ Đ. Ông Tăng D cho rằng ông là con nuôi cụ M, cụ Đ nhưng ông không có chứng cứ để chứng minh; bà Hiếu Ngh và bà Trung Ngh cũng không thừa nhận; do đó có đủ cơ sở khẳng định con của hai cụ là bà Hiếu Ngh và Trung Ngh. Năm 1997 cụ Đ chết, theo qui định tại khoản 1 Điều 638, điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 thì hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đ gồm cụ M, bà Hiếu Ngh, bà Trung Ngh.

3.3. Về hợp đồng mua bán nhà giữa cụ M với bà L, bà V:

3.3.1. Về tính hợp pháp của hợp đồng

Ngày 12/10/2007 tại Phòng công chứng cụ M kí Hợp đồng số 1860/HĐ- MBN mua bán nhà với bà L, bà V. Căn nhà số 515-517 có một phần bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh được hưởng thừa kế từ cụ Đ; cụ M tự ý kí hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ căn nhà 515-517 mà không được hai bà ủy quyền là không đúng qui định pháp luật; cụ M chỉ được chuyển nhượng 1/2 phần tài sản của cụ trong khối tài sản chung và phần cụ được hưởng thừa kế từ cụ Đ. Mặt khác bà L và bà V biết rõ bà Trung Ngh và Hiếu Ngh là con nuôi của hai cụ nên hai bà không phải là người mua ngay tình. Do đó hợp đồng bị vô hiệu đối với phần tài sản thuộc quyền thừa kế của bà Hiếu Ngh, bà Trung Ngh.

Bản án dân sự sơ thẩm số 1146/2017/DS-ST ngày 01/9/2017 và Bản án dân sự phúc thẩm số 393/2019/DS-PT ngày 09/9/2019 xác định hợp đồng mua bán nhà giữa cụ M với bà L, bà V vô hiệu toàn bộ là không đúng.

Như vậy đối với vụ án liên quan đến di sản thừa kế khi người chết không để lại di chúc; một trong các đồng thừa kế tự ý xác lập giao dịch đối với toàn bộ di sản thừa kế (chuyển nhượng; tặng cho... ) cho người khác mà không được sự ủy quyền của các đồng thừa kế khác thì giao dịch do một trong các đồng thừa kế đã thực hiện không vô hiệu toàn bộ mà chỉ vô hiệu đôi với phần của các đồng thừa kế khác được hưởng.

3.3.2. Về thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng số 1860/HĐ-MBN:

Trong quá trình giải quyết vụ án bà V và bà L thừa nhận hai bà mua chung mỗi người 1/2 căn nhà, phần của bà L thì bà L trả cụ M 1000 lượng vàng; phần của bà V thì được cụ M cho. Như vậy có căn cứ xác định cụ M đã cho bà V 1/2 giá trị căn nhà trên. Bản án dân sự phúc thẩm số 393/2019/DS-PT công nhận sự thỏa thuận giữa bà L với bà Hiếu Ngh, bà Trung Ngh mà không có sự đồng ý của bà V là không đúng gây thiệt hại cho bà V.

3.4. Trách nhiệm của Kiểm sát viên:

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm phiên tòa phúc thấm đều đề nghị hội đồng xét xử tuyên hợp đồng vô hiệu và hủy Hợp đồng mua bán nhà số 1860/HĐ-MBN là chưa chính xác.

Ngoài ra Kiểm sát viên cũng chưa xem xét lời khai của bà V, sự thừa nhận của bà L về việc bà V được cụ M cho 1/2 giá trị căn nhà cũng như việc bà V được đứng tên đồng sở hữu căn nhà trên cùng bà L để đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của bà L với bà Trung Ngh và bà Hiếu Ngh mà không có sự đồng ý của bà V là chưa xem xét chứng cứ một cách toàn diện nên chưa đảm bảọ quyền lợi cho bà V.

Trên đây là những vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấm trong việc giải quyết vụ án "Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, chia thừa kếhủy giây chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở”, Vụ 9 thông báo đến các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh để rút kinh nghiệm khi kiểm sát việc giải quyết những trường hợp tương tự./.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}