Bỏ sót người tham gia tố tụng và giải quyết vượt quá thẩm quyền trong vụ án khiếu kiện quyết định hành chính

Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm trong vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính" trong quản lý nhà nước về đất đai giữa người khởi kiện là ông Trần Văn S và người bị kiện là Uỷ ban nhân dân huyện Đ, tỉnh L.

Bỏ sót người tham gia tố tụng và giải quyết vượt quá thẩm quyền trong vụ án khiếu kiện quyết định hành chính

I. TÓM TẤT NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 24/10/2016, ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện Đ, tỉnh L ban  hành Quyết định số 9382/QĐ-UBND về việc thu hồi đất toàn bộ diện tích đất của ông Trần Văn S tại các thửa 113 diện tích 1.488m2, thửa 115 diện tích 3.475m2 cùng phần diện tích rộng 9.283m2 tờ bản đồ số 02, ấp c, xã T, huyện Đ, tỉnh L với tổng diện tích là 14.246m2 và Quyết định sổ 9383/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ do thiệt hại về đất cho ông Trần Văn S với giá trị 665.860.185 đồng (Sáu trăm sáu mươi lăm triệu tám trăm sáu mươi nghìn một trăm tám mươi lăm đồng), hỗ trợ 200.730.000 đồng (Hai trăm triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng). Ngày 23/10/2017, UBND huyện Đ ban hành Quyết định số 8439/QĐ-UBND giải quyết bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với ông S số tiền 87.905.025 đồng (Tám mươi bảy triệu chín trăm linh năm nghìn không trăm hai mươi lăm đồng), ông S nhất trí về phần thu hồi và bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, nhưng không đồng ý phần hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm theo cách tính của UBND huyện Đ tại bảng chiết tính kèm theo Quyết định số 9383/QĐ-UBND và Quyết định số 8439/QĐ-UBND (diện tích X đơn giá X 0,4 lần) mức hỗ trợ này quá thấp so với bà Phạm Thị T có đất bị thu hồi (gần đất nhà ông S) được tính mức hỗ trợ: diện tích X đơn giá đất X 02 lần.

Ngày 07/11/2016, ông S khởi kiện đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 9383/QĐ-UBND, yêu cầu UBND huyện Đ, Công ty cổ phần đầu tư Quốc tế Q nâng mức hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho ông từ 0,4 lên 2 lần đơn giá, diện tích đất nông nghiệp cùng loại.

II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

1. Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2017/HC-ST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh L, quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn S về việc yêu cầu nâng mức hỗ trợ chuyển đồi và tạo việc làm lên gấp 02 lần đơn giá diện tích đất bị thu hồi.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

2. Bản án hành chính phúc thẩm sổ 178/2019/HC-PT ngày 16/4/2019 của TAND cấp cao tại Thành phố H quyết định: Chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn S: hủy Quyết định sổ 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 của UBND tỉnh L.

Sau khi xét xử phúc thẩm, UBND huyện Đ có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 06/2021/HC-GĐT ngày 12/4/2021, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định: chấp nhận Quyết định kháng nghị số 03/2021/KN-GĐT ngày 05/02/2021 của Chánh án TAND tối cao hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 178/2019/HC-PT ngày 16/4/2019 của TAND cấp cao tại Thành phố H; giao hồ sơ vụ án cho TAND cấp cao tại thành phố H xét xử phúc thẩm lại.

III. VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM 

1. Quyết định mức hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm không đúng

Quyết định số 9383/QĐ-UBND ngày 24/10/2016 của UBND huyện Đ, tỉnh L về việc bồi thường, hỗ trợ do thiệt hại về đất đổi với hộ ông Trần Văn S căn cứ vào Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 của UBND tỉnh L về việc phê duyệt lại hệ số điều chỉnh đơn giá đất và mức hỗ trợ thực hiện dự án để hỗ trợ mức 0,4 lần đơn giá đất nông nghiệp, còn trường hợp của bà Phạm Thị T (là người cùng địa phương, có cùng loại đất bị thu hồi) căn cứ vào Quyết định số 3454/QĐ-UBND ngày 23/9/2015 của UBND tỉnh L để hỗ trợ 02 lần đơn giá đất nông nghiệp. Cả hai Quyết định sổ 3454/QĐ-UBND ngày 23/9/2015 và Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 của UBND tỉnh L đều căn cứ vào Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, tuy nhiên hai quyết định nêu trên lại quy định mức hỗ trợ khác nhau. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S cho rằng trường hợp của ông S căn cứ vào Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016, còn trường hợp của bà T căn cứ vào Quyết định số 3454/QĐ-UBND ngày 23/9/2015 của UBND tỉnh L là không đúng.

2. Bỏ sót người tham gia tố tụng

Trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông S không khởi kiện Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 của UBND tỉnh L mà chỉ khởi kiện Quyết định số 9383/QĐ-UBND ngày 24/10/2016 của UBND huyện Đ, tỉnh L yêu cầu nâng mức hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm việc làm cho ông từ mức 0,4 lần lên 02 lần đơn giá đất nông nghiệp. Do đó, Quyết định số 2871/QĐ-UBND không được xác định là đối tượng khởi kiện và chưa được xem xét tại Tòa án cấp sơ thẩm. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, ông S bổ sung yêu cầu hủy Quyết định số 2871/QĐ-UBND của UBND tỉnh L, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết và tuyên hủy Quyết định số 2871/QĐ-UBND nhưng lại không đưa UBND tỉnh L vào tham gia tố tụng với tư cách là người bị kiện là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

3. Giải quyết vượt quả thẩm quyền

Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 của UBND tỉnh L bao gồm nhiều nội dung như: Quy định đơn giá đối với từng loại đất, hệ số điều chỉnh và mức hỗ trợ 0,4 lần đơn giá đất nông nghiệp, ông S chỉ khởi kiện phần nội dung quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm là 0,4 lần, không khởi kiện các nội dung về đơn giá đất đối với từng loại đất, cũng như hệ số điều chỉnh. Việc Tòa án cấp phúc thẩm không tuyên hủy Quyết định số 9383/QĐ-UBND của UBND huyện Đ, tỉnh L mà tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 của UBND tỉnh L là không đúng và vượt quá thẩm quyền quy định tại Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án, Viện kiểm sát nhân dân cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không phát hiện được vi phạm nêu trên của Tòa án hai cấp để thực hiện thẩm quyền kháng nghị hoặc thông báo đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp có thẩm quyền kháng nghị theo quy định là thiếu sót.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các cấp nghiên cứu tham khảo, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính./.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}