Vi phạm quy định về tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và vi phạm thẩm quyền điều tra vụ án cướp tài sản

Thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Nguyễn Đình C, sinh ngày 04/10/2002, nơi cư trú: Xóm 15, xã TM, huyện TY, tỉnh NA phạm tội Cướp tài sản do HĐXX Tòa án nhân dân tỉnh NB xét xử phúc thẩm tuyên sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện BS do có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật.

Vi phạm quy định về tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và vi phạm thẩm quyền điều tra vụ án cướp tài sản

1. Tóm tắt nội dung và quá trình giải quyết vụ án

Khoảng 1 giờ 45 phút ngày 25/7/2020, tại Km 20+200 Quốc lộ 388 thuộc địa phận thị trấn HA, huyện BS, tỉnh NB , Nguyễn Đình C và Nguyễn Văn T đã có hành vi dụng dao, gậy rút ba khúc để chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ đen, biển kiểm soát 13F1-421.89 có giá trị là 29.000.000 đồng của anh Đặng Văn T. Anh T bị thương tích, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 07%. Nguyễn Anh H, biết được hành vi phạm tội của C và T nhưng không tố giác với cơ quan có thẩm quyền.

Ngoài hành vi phạm tội trên, C và T còn thực hiện 01 vụ cướp tài sản trên địa bàn huyện DT vào ngày 23/7/2020; T, C, H thực hiện 01 vụ cướp tài sản trên địa bàn huyện VQ vào buổi chiều ngày 25/7/2020. Các hành vi phạm tội này đã được Tòa án nhân dân các huyện DT và VQ xét xử, Bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện BS tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình C phạm tội “Cướp tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 56; Điều 91; khoản 1 Điều 101 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình C 6 năm 4 tháng tù; Tổng họp với hình phạt 6 năm 6 tháng tù của Bản án số 21/2020/HSST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện DT và hình phạt 7 năm tù của Bản án số 27/2020/HSST ngày 28/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện VQ, buộc bị cáo C phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba Bản án là 19 năm 10 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 27/7/2020.

Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKSNB ngay 01/3/2021, Viện trưởng Viện KSND tỉnh NB kháng nghị Ban án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 của Toa an nhân dân huyện BS đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh NB xét xử phúc thẩm sửa Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên về phần tổng hợp hình phạt.

Bản án hình sự phúc thẩm số 30/2021/HSPT ngày 14/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh NB quyết định: Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tỉnh NB, sửa Bản án số 06/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện BS: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 56; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 103; Điều 104; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Đình C 6 năm 4 tháng tù. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo C phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 Bản án là 18 năm tù.

2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

Thứ nhất, cấp sơ thẩm đã vi phạm quy định về tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:

Bị cáo Nguyễn Đình C sinh ngày 04/10/2002. Bị cáo thực hiện 03 hành vi phạm tội tại các huyện DT ngày 23/7/2020 và BS, VQ cùng ngày 25/7/2020. Như vậy, khi C thực hiện các hành vi phạm tội thuộc trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, theo quy định tại các Điều 103, 104 Bộ luật hình sự thì mức hình phạt tù cao nhất được áp dụng đối với C không vượt quá 18 năm tù.

Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng các Điều 103, 104 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo là vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, dẫn đến việc tổng hợp mức hình phạt chung đối với bị cáo cao hơn mức tối đa là 01 năm 10 tháng tù.

Thứ hai, các bị cáo Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T thực hiện hành vi phạm tội tại nhiều nơi (03 huyện DT, BS, VQ). Cơ quan điều tra của các huyện tiến hành điều tra từng hành vi phạm tội xảy ra trên địa bàn mình là chưa đúng theo quy định tại khoản 4 Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại khoản 4 Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “...Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt. ” 

Theo quy định trên, trường hợp này các bị cáo thực hiện tội phạm trên địa bàn 03 huyện thì thẩm quyền điều tra chỉ thuộc về 01 Cơ quan điều tra (nơi phát hiện tội phạm hoặc nơi bị can bị bắt) và các hành vi phạm tội được điều tra, truy tố, xét xử trong cùng 01 vụ án.

Việc 03 Cơ quan Cảnh sát điều tra các huyện DT, BS, VQ điều tra 03 hành vi phạm tội của các bị cáo dẫn đến các bị cáo bị đưa ra xét xử 03 lần là chưa đúng quy định của pháp luật, gây bất lợi cho các bị cáo. Bởi, nếu các bị cáo bị xét xử một lần về 03 hành vi phạm tội cướp tài sản đã thực hiện theo quy định khoản 2 Điều 168 BLHS, có khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù, thì bị cáo C chỉ bị phạt tối đa đến 12 năm tù (Theo quy định tại Điều 101 BLHS: Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định), bị cáo T bị phạt tối đa là 15 năm tù (mức cao nhất của khung hình phạt). Nhưng do, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện không chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra có thẩm quyền điều tra để điều tra, truy tố, xét xử theo quy định tại khoản 4 Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự, nên bị cáo C phải chịu hình phạt chung lên tới 18 năm tù, bị cáo T phải chịu hình phạt chung lên tới 25 năm 06 tháng tù, trong khi đó bị cáo C khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, còn bị cáo T 19 tuổi.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}