Rút kinh nghiệm thi hành án dân sự - Ra quyết định về việc chưa có điều khiện thi hành án khi chưa xử lý xong tài sản thế chấp

 

Thông qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự (THADS), Viện kiểm sát nhẩn dân (VKSND) tối cao (Vụ 11) thấy việc Cục THADS thành phố H căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 44a Luật THADS năm 2014 và Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về Chế độ báo cáo thống kê THADS, theo dõi thi hành án hành chính để ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với Công ty TNHH L số tiền 510.637.495.962 đồng là không đúng quy định của pháp luật. Sau khi trao đổi, thống nhất với Tổng cục THADS- Bộ Tư pháp, VKSND tối cao (Vụ 11) thông báo để rút kinh nghiệm khi thực hiện công tác kiểm sát việc ra Quyết định chưa%/^ có điều kiện THADS như sau:

I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 15/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện A và Bản án số 18/2017/KDTM-PT ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H; Quyết định thi hành án số 133/QĐ-CCTHADS ngày 22/11/2017 của Chi cục THADS huyện A; Quyết định rút hồ sơ số 05/QĐ-CTHADS ngày 20/4/2018 của Cục THADS thành phố H đối với Công ty TNHH L phải trả nợ cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 582.814.933.462 đồng (Năm trăm tám hai tỷ tám trăm mười bổn triệu chỉn trăm ba ba ngàn bổn trăm sáu mươi hai đồng), trong đó: Nợ gốc tính đến ngày 15/3/2015 là 333.076.793.832 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 31/5/2015 là 249.738.139.630 đồng, tài sản bảo đảm của Công ty TNHH L gồm:

- Tài sản thứ nhất: Toàn bộ dây chuyền máy móc thiết bị của Nhà máy luyện gang L giai đoạn 1 tại thôn M, xã B, huyện A, thành phố H theo Hợp đồng thế chấp số 01 ngày 24/6/2009 và Hợp đồng thế chấp số 02 ngày 24/6/2009 bao gồm toàn bộ nhà xưởng, vật kiến trúc và các dây chuyền, máy móc, thiết bị nằm trên thửa đất được trích sao bản đồ địa chính ngày 03/11/2007, tờ bản đồ số “00”, diện tích 106.804,15m2 tại địa chỉ xã B, huyện A, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất T00475 do UBND thành phố H cấp ngày 03/12/2007 cho Công ty TNHH L.

- Tài sản thứ hai: Diện tích đất 43m2 tại thửa số 77A, tờ bản đồ số 6G-II- 03 và tài sản gắn liền với đất tại số 107 đường ĐLT, phường o, quận Đ, thành phố Q của vợ chồng ông s và tài sản trên đất là nhà ở 04 tầng, tồng diện tích sử dụng 150m2, diện tích xây dựng 43m2, kết cấu nhà bê tông, hiện tại do vợ chồng ông Nguyễn Trường s và bà Nguyễn Phương u quản lý, sử dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 10109112948 do UBND quận quận Đ, thành phố Q cấp ngày 13/11/2003 đứng tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Trường s và bà Nguyễn Phương U

II. QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN

Do Công ty TNHH L không trả được nợ nên ngày 08/5/2019 Cục THADS thành phố H đã ban hành Quyết định số 20/QĐ-CTHADS về việc cưỡng chế, kê biên tài sản thế chấp của Công ty TNHH L và tiến hành việc cưỡng chế, kê biên tài sản vào ngày 24/5/2019. Tài sản kê biên bao gồm toàn bộ dây chuyền máy móc, thiết bị đã hình thành của Nhà máy luyện gang L giai đoạn 1 tại thôn M, xã B, huyện A, thành phố H theo các Hợp đồng thế chấp tài sản giữa Công ty TNHH L với Ngân hàng, đồng thời tiến hành việc thẩm định giá và ký Hợp đồng với Công ty đấu giá hợp danh TS, chi nhánh K để bán đấu giá tài sản đã kê biên của Công ty TNHH L với giá thẩm định lần đầu là 79.975.000.000 đồng.

Theo Thông báo số 04/TB-TSHP ngày 21/02/2020 của Công ty đấu giá hợp danh TS, chi nhánh K về việc không có người tham gia đấu giá. Ngày 03/3/2020, Chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành án đã ra Quyết định số 49/QĐ-CTHADS về việc giảm giá tài sản lần thứ nhất với mức 5%, giá trị tài sản còn lại để đưa ra bán đấu giá lần thứ hai là 75.976.250.000 đồng. Đồng thời, Chấp hành viên ra Thông báo số 303/TB-CTHADS ngày 01/6/2020 về việc tiếp tục đấu giá tài sản. Căn cứ Vãn bản số 12/TB-TSHP ngày 17/6/2020 của Công ty đấu giá hợp danh TS, chi nhánh K về việc không có người tham gia đấu giá, chấp hành viên đã ra Quyết định số 101/QĐ-CTHADS ngày 01/7/2020 về việc giảm giá tài sản lần thứ hai với mức 5%, giá trị tài sản còn lại để đưa ra bán đấu giá lần 3 là: 72.177.437.500 đồng.

Cục THADS thành phố H đang tiến hành xử lý tài sản thế chấp thứ nhất của Công ty TNHH L để thi hành án, chưa xử lý tài sản thế chấp thứ hai, vì vậy có đủ cơ sở xác định Công ty TNHH L có điều kiện thi hành án. về trình tự tổ chức thi hành án lẽ ra Cục THADS thành phố H phải xử lý xong các tài sản thế chấp của Công ty TNHH L trong Bản án (tài sản thứ nhất và tài sản thứ hai) để trả nợ cho Ngân hàng, tuy nhiên do giá trị tài sản thế chấp của Công ty TNHH L không đủ để thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của Bản án, Chấp hành viên phải xác minh khi có đủ các căn cứ quy định tại Điều 44a Luật THADS năm 2014 thì Cục THADS thành phố H mới được ban hành Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với Công ty TNHH L. Trong vụ việc này, Cục THADS thành phố H chưa xử lý xong tài sản thế chấp của Công ty TNHH L nhưng đã căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 44a Luật THADS năm 2014 và Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019 của Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo thống kê THADS, theo dõi án hành chính để ra Quyết định số 06/QĐ-CTHADS ngày 29/7/2020 về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với Công ty TNHH L số tiền 510.637.495.962 đồng là không có căn cứ.

III. NỘI DUNG CẦN RÚT KINH NGHIỆM

Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo thống kê THADS, theo dõi thi hành án hành chính có phạm vi điều chỉnh: Sử dụng và công bố, phổ biến thông tin thống kê; kiểm tra, thẩm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm trong việc thực hiện Chế độ báo cáo thống kê THADS. Theo đó, nội dung giải thích từ ngữ tại biểu mẫu số 02/TK- THA; 03/TK-THA; 05/TK-THA liên quan đến việc xác định tiền chưa có điều kiện thi hành (số tiền còn phải thi hành sau khi đối trừ giá trị tài sản tại thời điểm báo cáo mà đã giảm giá lần thứ hai không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành), không phải là căn cứ pháp lý để cơ quan THADS ban hành Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án theo quy định tại Điều 44a Luật THADS năm 2014.

Do đó, việc Cục THADS thành phố H chưa xử lý xong các tài sản thế chấp của Công ty TNHH L, nhưng đã ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án (căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 44a Luật THADS năm 2014; Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019 của Bộ Tư pháp) đối với Công ty TNHH L số tiền 510.637.495.962 đồng là chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, được xác định là chưa có điều kiện một phần, Cục THADS thành phố H không ra quyết định về việc chưa có điều kiện, mà chỉ thống kê xếp vào diện chưa có điều kiện đối với số tiền sau khi đối trừ.


Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}