Hủy bản án sơ thẩm về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức

Vừa qua Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định: Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 124/2018/HS-ST ngày 21/9/2018 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố H đã kết án Nguyễn Thanh Tùng 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tố chức”. Thông qua vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các cấp nghiên cứu, rút kinh nghiệm như sau:

1. NỘI DƯNG VÀ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

Theo Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận L, thành phố H thì bị cáo Nguyễn Thanh Tùng có hành vi như sau:

Nguyễn Thanh Tùng vay của Hoàng Bá Thiềm số tiền 2.630.000.000đ và hẹn đến cuối tháng 03/2018 sẽ trả. Đến ngày 26/3/2018, Tùng không có tiền trả cho Thiềm, nên gọi điện cho anh Vũ Văn Thắng trú tại số 30/124 Phương Khê, phường Đồng Hòa, quận K, thành phố H và anh Lê Văn Thái trú tại xã Thái Sơn, huyện A, thành phố H hỏi vay số tiền 3.500.000.000đ (ba tỷ năm trăm nghìn đồng). Anh Thắng và anh Thái đồng ý cho vay và yêu cầu phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính chủ thế chấp.

Do cần tiền trả cho Thiềm nên Tùng đã nghĩ ra cách làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ) để lừa anh Thái và anh Thắng cho vay tiền. Tùng và Thiềm đã đến gặp Vũ Hữu Tuấn (sinh năm 1983; ĐKHKTT tại số 4/72/239 Lê Lợi), là người quen của Thiềm để nhờ Tuấn đứng tên sổ đỏ và đứng ra ký hợp đồng chuyển nhượng đất để vay tiền giúp Tùng trả nợ cho Thiềm. Tuấn đồng ý.

Tùng đã sửa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 101227 của bà Trân Thị Mỳ (do Tùng được chị Ngô Thị Hải, con gái bà Mỳ gửi làm một số thủ tục tại Văn phòng đăng ký đất đai); giả con dấu và chữ ký Phó Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai quận L, viết thêm nội dung bà Mỳ sang tên quyền sử dụng đât cho Vũ Hữu Tuan. Cụ thể: Sau khi in giả con dấu của Văn phòng đăng ký đât đai quận L vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 101227, Tùng nhờ Vũ Thị Minh Nguyệt, là nhân viên quán photocopy Hiển Lương viêt vào ô “Nội dung thay đổi và cơ sở pháp lý” với nội dung: “Ngày 13/3/2018 tặng cho ông Vũ Hữu Tuấn, sinh năm 1983, sổ CCCD: 031083004460 do Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày 12/5/2016; địa chỉ thường trú: số 4/72/239 Lê Lợi, Quận N, thành phố H. Theo hợp đồng trao tặng số công chứng 00823PTT/2018”. Nguyệt viêt xong, Tùng cho Nguyệt xem mẫu chữ ký của bà Phạm Thị Tuyết, Phó Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai quận L mà Tùng đã chụp và lưu trong điện thoại của Tùng trước đó đê Nguyệt ký giả mạo chữ ký của bà Tuyêt vào dâu tròn của Văn phòng đăng ký đất đai mà Tùng vừa làm giả.

Sau khi làm xong, Tùng gọi cho anh Vũ Văn Thắng và anh Lê Văn Thái nói là có bìa đỏ đât chính chủ ở mặt đường Lạch Tray thê châp đê vay tiên. Thắng và Thái yêu cầu phải làm hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì mới cho vay. Tùng đã nhờ anh Nguyễn Nam Vinh là nhân viên Văn phòng công chứng Nhân Hòa soạn giúp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đem đến ngân hàng Vietinbank ở số 124 Nguyễn Đức Cảnh để giao dịch. Sau đó, Tùng, Tuấn, Thắng, Thái hẹn nhau đến ngân hàng Vietinbank để Thái và Tuấn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá 3.500.000.000 đồng do Vinh soạn sẵn.

Sau khi Tuấn và Thái ký, điểm chỉ vào họp đồng, Thái cầm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nói chỉ cho vay được 3.000.000.000 đồng và chuyển vào tài khoản của Tuấn. Tuấn rút hết 3.000.000.000 đồng đưa lại cho Tùng. Số tiền này Tùng khai đã trả nợ cho Thiềm và những người khác hết.

Sau đó, do Tùng không có tiền trả cho anh Thái và bị anh Thái truy tìm nên Tùng đã bỏ trốn. Ngày 23/4/2018, anh Lê Văn Thái đến Cơ quan Công an tố giác Nguyễn Thanh Tùng lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 25/4/2018, Tùng đến trụ sở Công an phường c, quận L, thành phố H đầu thú.

Tại Bản kết luận giám định số 37/KLGĐ ngày 26/4/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: Hình dấu tròn có nội dung “Chi nhánh quận Lê Chân” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu: A) so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu: Ml) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu chức danh có nội dung “Phó giám đốc Phạm Thị Tuyết” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu: A) so với hình dấu chức danh của bà Phạm Thi. Tuyết- Phó giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh quận L trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu: Ml) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Chữ ký mang tên Phó Giám đốc “Phạm Thị Tuyết” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký của bà Phạm Thị Tuyết, Phó Giám đốc văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh quận L trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu: Ml) không phải chữ ký của cùng một người.

Chữ viết tại phần “IV. Những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận” trên tài liệu cân giám định (ký hiệu: A) so với chữ viêt của Vũ Thị Minh Nguyệt, sinh năm 1989; ĐKHKTT: số 22/30/42/152 Lê Lai, phường M, quận N, thành phô H trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu: M2, M3, M4, M5) là chữ viết của cùng một người.

Tại Cáo trạng số 117/CT-VKS ngày 06/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận L, thành phố H truy tố Nguyễn Thanh Tùng về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức" theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 124/2018/HS-ST ngày 21/9/2018, Tòa án nhân dân quận L áp dụng khoản 1 Điều 341; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thanh Tùng 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức". (Vũ Thị Minh Nguyệt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tồ chức" nhưng cho hưởng án treo, thử thách là 24 tháng).

Ngoài ra, án sơ thẩm xử phạt bị cáo Vũ Thị Minh Nguyệt và quyết định về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo theo quy định pháp luật và kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận L làm rõ hành vỉ có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” của Nguyễn Thanh Tùng, Vũ Hữu Tuấn và Hoàng Bả Thỉềm đế phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và tránh bỏ lọt tội phạm. Bản ản không có kháng cáo và không bị khảng nghị nên đã có hiệu ỉực pháp luật.

Ngày 17/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố H có Công vãn số 1714/TA-KTNV&THA gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận L với nội dung: “Tòa án nhân dân thành phố H thấy hành vi của các bị cáo Nguyễn Thanh Tùng, Vũ Thị Minh Nguyệt trong vụ án có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.. .. đề nghị Thủ trưởng Cơ quan CSĐT CATP, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L khởi tố, điều tra làm rõ hành vỉ của các bị cáo trong vụ án và những người có ỉỉên quan theo kiến nghị của Hội đồng xét xử tại Bản án số 124/2018/HS-STngày 21/9/2018... ”

Ngày 10/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận L có vãn bản trả lời Tòa án nhân dân thành phố H với nội dung: “.. .chưa đủ căn cứ ra quyêt định khởi tô vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và chưa đủ căn cứ xử lỷ đổi với Nguyễn Thanh Tùng, Vũ Hữu Tuấn, Hoàng Bả Thỉềm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tàỉ sản ”

Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên bị kháng nghị giám dóc thẩm, ngày 06/3/2020 ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm, quyết định: Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 124/2018/HS-ST ngày 21/9/2018 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố H về phần quyết định đối với Nguyễn Thanh Tùng để điều tra lại.

2. NHỮNG VẤN ĐÈ RÚT KINH NGHIỆM

Nguyễn Thanh Tùng đã có hành vi làm giả việc bà Trần Thị Mỳ sang tên cho Vũ Hữu Tuấn quyền sử dụng đất tại thửa số 138 Tờ bản đồ số 34, khu Hào Khê, phường K, quận L, thành phố H (đất có Giấy chứng nhận số BĐ 101227 do ủy ban nhân dân quận L cấp ngày 28/3/2011), cụ thể: Tùng cùng với Vũ Thị Minh Nguyệt đã tự ý viết thêm vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât của bà Mỳ nội dung bà Mỳ tặng cho Vũ Hữu Tuấn diện tích đất trên, in giả con dấu của Văn phòng đáng ký đất đai, chi nhánh quận L và ký giả chữ ký của bà Phạm Thị Tuyết- Phó Giám đốc Văn phòng đăng ký đât đai, quận L. Do đó, Tòa án nhân dân quận L kết án Tùng và Nguyệt về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Ngoài hành vi phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tô chức ”, hành vỉ của Nguyễn Thanh Tùng còn có dấu hiệu phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo Điều 174 Bộ luật hĩnh sự, cụ thế: Khi anh Lê Văn Thái không đồng ý cho Nguyễn Thanh Tùng vay tiền nếu không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính chủ để thế chấp thì Tùng đã làm giả việc sang tên diện tích 75m2 đất tại thửa số 138 Tờ bản đồ số 34 (Giấỵ chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 101227) cho Vũ Hữu Tuấn và nhờ Tuấn giả làm chủ sử dụng đất đến ký Hợp đồng với anh Thái, để anh Thái cho Tùng vay tiền. Đây là hành vi gian dối, nhằm chuyển dịch tài sản (số tiền 3 tỷ đồng) từ anh Thái sang Tùng. Thực tế anh Thái đã tin nội dung bà Mỳ tặng cho Tuấn ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thật nên đã chuyển tiền vào tài khoản của Tuấn, Tuấn rút tiền và đưa cho Tùng.

Xét thấy bị cáo Tùng và Thiềm, Tuấn ... đều là những người cho vay và vay lãi cao, Tùng vay tiền chỗ này để trả chỗ khác. Tại Cơ quan điều tra, Tùng có lời khai thừa nhận mục đích làm giả việc sang tên là để chiếm đoạt tiền của anh Thái trả nợ cho Thiềm (BL283). Tùng có nói với Thiềm về việc làm giả sổ đỏ thì mới có thể vay tiền anh Thái để trả cho Thiềm thì Thiềm bảo “em cứ làm đi, mấy hôm anh lấy lại được tiền thì lại trả cho người ta”. Tại thời điểm vay tiền anh Thái, Tùng không có tiền. Đen hạn, Tùng không có tiền để trả anh Thái nên đã bỏ trốn là hành vi thể hiện ý thức trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho anh Thái. Do vậy, hành vi của Nguyễn Thanh Tùng có dấu hiệu của tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự.

Trong qua trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận L cũng nhận định hành vi của Tùng, Thiềm, Tuấn có dấu hiệu của tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng không trả hồ sơ điều tra bổ sung, mà vẫn xét xử và kiến nghị làm rõ hành vỉ có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” của Nguyễn Thanh Tùng, Vũ Hữu Tuấn và Hoàng Bá Thiềm ” là sai lầm nghiêm trọng về tố tụng, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt người phạm tội, vi phạm quy định tại các Điều 280, 326 Bộ luật to tụng hình sự. Anh Thái có đơn tố cáo bị chiếm đoạt tài sản, đây là căn cứ để khởi tố vụ án nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng tại quận L chỉ điều tra, truy tố, xét xử Tùng về tội “Làm giả tài lỉệu của cơ quan, tổ chức”, dẫn đến việc không đưa anh Lê Văn Thái vào tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại là gây thiệt hại đên quyên, lợi ích hợp pháp của anh Thái.

Khi ra phiên tòa, Nguyễn ThanhTùng chỉ khai có nói với Hoàng Bá Thiem và Vũ Hữu Tuấn về việc làm giả sang tên trong sổ đỏ để vay tiền nhưng Thiềm và Tuấn có hiểu hay không thì Tùng không biết. Thiềm và Tuấn cũng phủ nhận hành vi cùng Tùng tham gia bàn bạc việc làm giả sang tên Giấy chứng nhận đê anh Thái đưa tiên. Vũ Hữu Tuân còn cung câp cho Cơ quan điều tra “Giấy cam đoan” do Tùng viết có nội dung là Tùng cam kết việc sang tên là do tự Tùng làm, Tuấn chỉ đứng tên giúp trên phương diện tình cảm. Tùng phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Thái nếu không trả được nợ thì tự mang tài sản trên cho anh Thái.

Tuy nhiên, Vũ Hữu Tuấn có lời khai thừa nhận khi Tùng bảo sang tên sổ đỏ cho Tuấn thì Tuấn không thấy có văn bản ủy quyền gì và cũng không rõ lai lịch của người dứng tên trên Giấy chứng nhận sang tên cho Tuấn. Tuấn thấy Tùng làm thủ tục sang tên số đỏ rất nhanh (khoảng 30-40 phút).

Đối với Thiềm, thực tế có việc Thiềm đi cùng Tùng gặp Tuấn để Tùng nhờ Tuấn đứng tên sổ đỏ và ký Hợp đồng với anh Thái đế vay tiền. Việc Tùng vay tiền anh Thái là để trả nợ cho Thiềm. Khi Tuấn rút được tiền thì Thiềm đã có mặt tại sân Ngân hàng và Thiềm khai có nhận tiền từ Tùng nhưng chỉ khai là nhận 400 triệu Tùng trả nợ (chứ không phải là 1.920.000.000 đồng như Tùng khai).
Tại Cơ quan điều tra, Tùng đều khai thống nhất rằng Tùng có nói với Thiềm là Tùng đi vay để trả Thiềm nhưng không vay được vì người ta yêu cầu phải có số đỏ chính chủ thế chấp. Thiềm bảo cố gắng lo cho Thiềm vì Thiềm cũng đến hạn trả người khác. Tùng nghĩ ngay đến việc làm giả sổ đỏ để vay, Tùng có nói lại với Thiềm thì Thiềm bảo “em cứ làm đi, mấy hôm anh lẩy lại được tiền thỉ lại trả cho người ta ”. Thiềm bàn bạc với Tùng là nhờ Tuấn đứng tên vay giúp. Thiềm là người gọi Tuấn đến để Tùng nói chuyện việc làm giả vay tiền. Tùng nói cho Tuấn biết việc sẽ làm giả số đỏ để Tuấn đứng tên vay tiền. Lúc đầu, Tuấn không đồng ý nhưng sau đó Tuấn đồng ý. Thiềm sợ Tùng nhận tiền rồi cầm tất cả nên đã đợi sẵn ở Ngân hàng. Sau khi Tuấn rút được tiền đưa Tùng, Thiềm đưa xe máy cho Tuấn tự đi về, Thiềm lên xe đi cùng Tùng. Thiềm dưa Tùng 400 triệu rồi cầm hết tiền về, ngàỵ hôm sau, Tùng bảo Thiềm đưa thêm cho Tùng 680 triệu nữa, còn lại Thiềm cầm hết số tiền 1.920.000.000 đồng trên.

Khi đối chất với Thiềm và Tuấn, Tùng vẫn khai nhận như trên. Tại bản tự khai, Tùng khai việc Tùng viết giấy cam kết thể hiện việc sang tên là do Tùng làm, Tuấn chỉ là người đứng tên giúp là do khi Tùng gọi Thiềm hỏi vay lại tiền để trả Thái. Thiềm, Tuấn gọi Tùng đến và bắt viết nội dung trên. Do đó, cần thiết phải hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 124/2018/HS-ST đế điều tra lại hành vi của Nguyễn Thanh Tùng và các đối tượng liên quan để tránh bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; giải quyết vụ án một cách toàn diện, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân.

Thông qua vụ án này, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyên công tô ở các giai đoạn điêu tra, truy tô, xét xử. Viện kiêm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp sơ thẩm, đặc biệt là Kiêm sát viên khi thực hành quyên công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}