Rút kinh nghiệm vụ án hành chính: Tòa án đánh giá chứng cứ chưa đúng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện

Qua nghiên cứu giải quyết đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm của bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 70/HC- PT, ngày 08, 12/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố H. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy kết luận trong bản án chưa phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án đã gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện nên cần thiết nêu ra để cùng rút kinh nghiệm:

I. NỘI DUNG VỤ ÁN

Thực hiện dự án đầu tư điều chỉnh nút giao giữa dự án cầu Thanh Trì với đường Quốc lộ 5, hộ gia đình bà Hoàng Thị T và hộ gia đình con gái bà là chị Phan Thanh H (hiện đã lấy chồng và ở riêng) bị thu hồi 97.5m2 đất tại thửa số 23, tờ bản đồ số 19 xã TB trong đó có 12,9m2 là đất lưu không; 84,6m2 nằm trong phạm vi giải phóng mặt bằng. Theo đó, ngày 25/4/2015, ủy ban nhân dân (UBND) quận LB ban hành Quyết định số 3390/QĐ-UBND (Quyết định số 3390) và ngày 12/5/2015 tiếp tục ban hành Quyết định số 3591/QĐ-UBND (Quyết định số 3591) về việc phê duyệt, đính chính bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà Hoàng Thị T với số tiền là 1.787.142.750 đồng, bố trí 01 suất tái định cư là 50,76m2.

Không đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ nêu trên, bà Hoàng Thị T làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND quận LB. Ngày 18/9/2015, Chủ tịch UBND quận LB ban hành Quyết định số 4292/QĐ-CTUBND (Quyết định số 4292) về việc giải quyết khiếu nại của bà T, nội dung không chấp nhận giữ nguyên các Quyết định 3390 và 3591. Cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của chị Phan Thanh H chưa được bảo đảm, hai mẹ con bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các Quyết định số 3390 và số 3591 của UBND quận LB.

Ngày 21/10/2016, UBND quận LB ban hành Quyết định số 7249/QĐ-UBND (Quyết định số 7249) phê duyệt bổ sung, điều chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư hộ gia đình bà Hoàng Thị T được bổ sung khoản hỗ trợ thuê nhà tạm cư và ổn định đời sống theo Điều 23 Quyết định số 23/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2014 của UBND thành phố H lý do chưa được giao đất số tiền được tăng thêm 87.600.000 đồng.

II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

- Bản án sơ thẩm số 03/2016/HC-ST ngày 27/5/2016 của Tòa án nhân dân quận LB xử: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H đối với yêu cầu hủy các Quyết định số 3390 và số 3591 của UBND quận LB. Vì vậy người khởi kiện đã làm đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện.

- Bản án phúc thẩm số 70/HC-PT của Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định chấp nhận một phần kháng cáo của bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H; sửa một phần quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2016/HC-ST, xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H yêu cầu hủy một phần các Quyết định số 3390 và số 3591 của UBND quận LB.

Cho rằng trên diện tích thửa đất bị thu hồi có 02 hộ gia đình sinh sống gồm hộ gia đình bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H nhung UBND quận LB chỉ hỗ trợ 01 suất tái định cư là không đúng, bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H có đơn đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 70/HC-PT của Tòa án nhân dân thành phố H.

Sau khi nghiên cứu đơn đề nghị, hồ sơ vụ án, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VC1-HC kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 70/HCPT của Tòa án nhân dân thành phố H.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chỉ xác định bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H được bồi thường, hỗ trợ 01 xuất tái định cư là không đúng quy định gây thiệt hại đến quyền và lợi ích họp pháp của chị Phan Thanh T. về tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện:

+ về hộ khẩu: Tại địa chỉ tổ 17 phường TB, quận LB, thành phố H (nơi bị thu hồi giải phóng mặt bằng) có hai hộ khẩu gia đình riêng biệt: Hộ bà Hoàng Thị T và hộ chị Phan Thanh H. Hộ chị H chuyển đến ngày 22/02/2010.

+ về việc xác nhận thực tế sinh sống của bà T và chị H tại nơi thu hồi đất: Văn bản số 703/UBND-ĐC ngày 23/6/2015 của UBND phường TB trả lời kiến nghị bổ sung nhân khẩu trong hộ gia đình bà Hoàng Thị T như sau: “Ngày 14/12/2013, Công an phường TB có xác nhận hộ bà Hoàng Thị T có 02 nhân khẩu thuộc KT1 gồm bà Hoàng Thị T và ông Nguyễn Hoàng A.

Ngày 22/6/2015, Công an phường TB xác nhận bổ sung thêm 06 nhân khấu là các ông, bà sau: Đào Thị Phương L, Nguyễn Đan L, Phan Thanh H, Ngô Văn S, Ngô Anh Q, Ngô Minh C. Đồng thời xác nhận này thay thế xác nhận ngày 14/12/2013 của Công an phường TB”.

Ngày 07/7/2015, sau khi rà soát lại, UBND phường TB có Văn bản số 747/ƯBND-ĐC xác nhận: số hộ gia đình đang trực tiếp sinh sống tại địa chỉ nơi thu hồi đất: 02 hộ số nhân khẩu 08 người, cụ thể: Hộ gia đình bà Hoàng Thị T gồm bà Hoàng Thị T (chủ hộ), anh Nguyễn Hoàng A (con), chị Đào Thị Phương L (con dâu); cháu Nguyễn Đan L (cháu nội); Hộ gia đình chị Phan Thanh H gồm chị Phan Thanh H (chủ hộ), chồng Ngô Văn S và các con Ngô Anh Q và Ngô Minh C.

+ Kết quả xác minh của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội

Biên bản xác minh ngày 19/11/2018 tại Công an phường TB xác nhận: Trước năm 2014 chị Phan Thanh H ở cùng mẹ là bà Hoàng Thị T và sau năm 2014 chị H cùng chồng, con ở 01 phòng trong tổng diện tích đất bị thu hồi. Thời điểm năm 2013, khi Công an phường xác nhận nhân khẩu, hộ khẩu không biết chị Phan Thanh H sinh sống ở đâu”. 

Ngày 21/6/2019, UBND quận LB có Công văn số 1077/UBND-TPTQĐ phúc đáp trả lời Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội là gia đình chị Phan Thanh H không còn nơi ở nào khác trên phường TB, quận LB.

Tổng hợp các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả xác minh có cơ sở xác định: Hộ gia đình chị Phan Thanh H đã sinh sống tại thửa đất giải phóng mặt bàng từ trước khi có thông báo thu hồi đất, ngoài nơi ở trên gia đình chị H không còn chỗ ơ nào khác. UBND quận LB thu hồi toàn bộ diện tích đất ở của hộ bà Hoàng Thị T nhưng Quyết định số 3390 và Quyết định số 3591 của UBND quận LB chỉ hỗ trợ 01 suất tái định cư cho 02 hộ gia đình cùng chung sống trên một thửa đất bị thu hồi là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Điều 25 Quyết định số 23/2014/QĐ-UBND, ngày 20/6/2014 của UBND thành phố H.

Việc UBND quận LB ban hành Quyết định số 7249 (sau khi bà T, chị H có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm) bổ sung thêm khoản hỗ trợ về thuê nhà tạm cư và ổn định đời sống dựa trên số nhân khẩu tăng thêm theo văn bản số 747/UBND-ĐC ngày 07/7/2015 của UBND phường TB nhưng không bổ sung suất tái định cư cho hộ gia đình chị Phan Thanh H là chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho hộ gia đình chị H.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tính hợp pháp của Quyết định số 4292 là quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan đến Quyết định số 3390, theo quy định tại khoản 1 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Điều 1 Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Khoản 1 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 là có thiếu sót.

Bản án sơ thẩm số 03/2016/HC-ST ngày 27/5/2016 của Tòa án nhân dân quận LB và Bản án số 70/HC-PT ngày 08 và 12/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố H xử bác yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị T và chị Phan Thanh H là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi ích hợp pháp của chị Phan Thanh H. Do đó, ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định hủy cả hai bản án trên để xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Thông qua vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố nghiên cứu, tham khảo rút kinh nghiệm để giải quyết tốt các vụ án tương tự nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính./.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}