Xác định lỗi của các bên dẫn đến hợp đồng vô hiệu vụ án Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Thực hiện việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự giữa nguyên đơn ông Mai Xuân Mạnh và bị đơn anh Nguyễn Minh Truởng.Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 75/2020/DS-PT ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh BN. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy:

1. Nội dung vụ án

Ngày 30/7/2003, gia đình anh Nguyễn Minh Trưởng và ông Mai Xuân Mạnh ký biên bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất 200m2 tại thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN với số tiền 125.000.000 triệu. Tại biên bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên thể hiện: Đại diện bên chuyển nhượng là anh Nguyễn Minh Ninh (là em trai anh Trưởng); Đại diện bên nhận chuyển quyền sử dụng đất là ông Mai Xuân Khang (là em trai của ông Mạnh) nhưng ông Mạnh là người ký biên bản dưới phần “Bên nhận chuyển nhượng”. Khi đó, ông Mạnh nhờ ông Khang đứng tên nhận chuyển nhượng hộ nhưng đến khi lành thủ tục chính thức thì ông Mạnh lại tham gia nên ông ký biên bản. Gia đình anh Trưởng do anh Ninh đứng tên nhưng dưới phần “Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất” có chữ ký của ông Nguyễn Minh Đoàn (là bố của anh Trưởng và anh Ninh), chị Nguyễn Thị quyên (là vợ anh Ninh) và ông Nguyễn Đình Quỳnh ký với tư cách là người làm chứng. Sau khi ký biên bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong ông đã giao đủ cho anh Trưởng số tiền 125.000.000 đồng (có giấy biên nhận do anh Trưởng viết và ký). Tại giấy biên nhận ghi người giao tiền là Mai Xuân Khang nhưng thực chất đó là tiền của ông.

Theo trích lục bản đồ thì thửa đất ông nhận chuyển nhượng có diện tích 200m2 chiều rộng giáp mặt đường 18 là 5m, chiều dài là 40m. Anh Trưởng có nói với ông là thửa đất gồm 100m2 đất lưu không nhưng Nhà nước chưa làm thì ông Mạnh vẫn được sử dụng như các hộ liền kề, 100m2 còn lại, sau chuyển thành đất ở.

Ngày 20/10/2006, UBND xã PL triển khai quyết định giao đất cho các hộ, căn cứ vào biên bản ủy quyền giữa ông Mạnh và anh Trưởng, ông Đoàn, UBND xã PL đã gửi cho ông Mạnh quyết định giao đất mang tên anh Trưởng nên ông Mạnh khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Đoàn và anh Trưởng phải trả lại thửa đất theo giá trị thời điểm hiện tại.

Bị đơn là anh Nguyễn Minh Trưởng trình bày: Anh xác nhận năm 2003, anh Nguyễn Mạnh Ninh chuyển nhượng cho ông Mai Xuân Khang (người đứng tên nhận chuyển nhượng là ông Đoàn) thửa đất nông nghiệp. Thửa đất anh Ninh chuyển nhượng cho ông Khang nằm trên đất luư không của đường 18 hiện nay đã được làm thành đường gom của đường 18. Gia đình anh chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Hợp đồng ngày 30/7/2003 cho ông Mạnh là đất nông nghiệp nên ông Mạnh khởi kiện đòi đất ở là không đúng vì giữa anh và ông Mạnh không giao dịch chuyển nhượng đất ở. Vợ chồng anh không giao dịch, mua bán, giao nhận tiền mua bán thửa đất trên cho ông Mạnh. Việc ông Mạnh trình bày là vợ chồng anh có văn bản ủy quyền cho ông Mạnh làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Mạnh mua của anh Ninh là không đúng.

2. Kết quả giải quyết của Tòa án

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2019/DS - ST ngày 15/10/2019, Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN quyết định: Tuyên bố Biên bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/7/2033 giữa anh Nguyễn Minh Trưởng và ông Mai Xuân Mạnh là vô hiệu.

Ngày 02/12/2019, anh Nguyễn Minh Trưởng có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 75/2020/DS-PT ngày 24/8/2020, Tòa án nhân dân tỉnh BN quyết định: Tuyên bố Biên bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/7/2003 giữa anh Nguyễn Minh Trưởng và ông Mai Xuân Mạnh là vô hiệu.

Sau khi xét xử phúc thẩm anh Nguyễn Minh Trưởng (bị đơn) có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân phúc thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh BN. Ngày 05/4/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định kháng nghị số 21/2021/KNGĐT-VC1- DS. Ngày 20/7/2021, ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Chấp nhận kháng nghị, tuyên hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 75/2020/DS-PT ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh BN và Bán án dân sư số 15/2019/DS-ST ngày 15/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện QV giải quyết theo thù tục sơ thẩm lại.

3. Những vi phạm cần rút kinh nghiệm

3.1. Xác định lỗi của các bên dẫn đến hợp đồng vô hiệu:

Xét việc chuyển nhượng đất giữa ông Trưởng và ông Mạnh thì thấy ông Trưởng là người chuyển nhượng quyền sử dụng đất, dù biết rõ diện tích đất chuyển nhượng là đất nông nghiệp và ông Trưởng chưa đảm bảo các điều kiện để chuyển nhượng đất nông nghiệp nhưng vẫn thực hiện ký Biên bản chuyển nhượng với ông Mạnh, về phía bên nhận chuyên nhượng, ông Mạnh là kỹ sư, không phải là người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, không đủ điều kiện nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp nhưng vẫn thực hiện giao dịch với ông Trưởng. Hơn nữa, việc chuyển nhượng không có xác nhận hoặc công chứng của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Do vậy, lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu thuộc về cả hai bên. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu hoàn toàn thuộc về bên chuyển nhượng là không đúng và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Trưởng và bà Hà (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan).

3.2. Định giá tài sản:

Đối tượng của biên bản chuyển nhượng ngày 30/7/2003 giữa ông Trưởng và ông Mạnh được xác định là diện tích 200m2 đất nông nghiệp. Theo quy định điều 146 BLDS năm 1995 thì các bên hoàn trả cho nhau nhưng gì đã nhận nên căn cứ để xác định thiệt hại là giá trị đất nông nghiệp. Tuy nhiên, theo biên bản định giá ngày 18/10/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng dân sự của huyện QV lại định giá thửa đất theo giá trị đất ở nông thôn với giá trị là 3.000.000.000đ. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ giá trị được định giá nêu trên để xác định thiệt hại khi tuyên hợp đồng vô hiệu và buộc ông Trưởng, bà Hà phải trả cho ông Mạnh bà Hương số tiền 3.129.550.000 đồng là chưa đủ cơ sở và không đúng quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xét xử đã giải quyết vụ án chưa triệt để, áp dụng không đúng quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, gây khó khăn trong công tác thi hành án dẫn đến phải kháng nghị giám đốc thẩm hủy án sơ thẩm, phúc thẩm, cần thông báo để rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để các đơn vị nghiên cứu, vận dụng để nâng cao chất lượng công tác giải quyết án dân sự.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}