Vi phạm về đánh giá chứng cứ, xác định đối tượng đất vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất

Thực hiện chức năng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn ông Trịnh Anh Dũng với bị đơn ông Đinh Viết Thông do Tòa án nhân dân tỉnh CB giải quyết tại Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2020/DS-PT ngày 08/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy:

Vi phạm về đánh giá chứng cứ, xác định đối tượng đất vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất

1. Nội dung vụ án

Nguyên đơn ông Trịnh Anh Dũng trình bày: Nguồn gốc diện tích 243m2 đất tại tổ 2 phường SB, thành phố CB là do bố mẹ ông Dũng là cụ Trịnh Pàng và cụ Linh Thị Thường khai phá từ những năm 1960, xây dụng nhà ở và quản lý sử dụng đất liên tục. Năm 1978 mẹ ông chết, năm 1990 bố ông chết đều không để lại di chúc, 04 anh chị em quản lý nhà đất nêu trên. Năm 2003, bốn anh chị em thỏa thuận chia 243m2 đất thành 04 lô. Việc phân chia được lập thành Văn bản ngày 17/10/2003 có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường SB. Trong 04 lô đât được chia 01 lô cuối cùng về phía tây, tiếp giáp nhà ông Đinh Viết Thông và bà Nguyễn Thị Hiệu. Trên đất có 01 ngôi nhà cũ bố mẹ ông để lại. Lô đât có diện tích kê khai và nộp thuế trước bạ là 60m2, thực tế quản lý sứ dụng theo bản đồ địa chính đo vẽ lại năm 2015 là thửa số 211, tờ bản đồ số 47, phường SB với diện tích 88m2 (mở rộng về phía sau là suối Củn).

Ngôi nhà được xây dựng trên diện tích 40m2 trên phần đất taluy dương 20m2 thuộc taluy âm sát phía bờ suối Củn. Do nhà xây dựng từ lâu, đã xuống câp nghiêm trọng, chưa có điều kiện sửa chữa nên ông Dũng không sử dụng. Việc quản lý theo dõi vẫn thấy khóa cửa, không kiểm tra đất phía sau, đồng thời đất có khuôn viên ranh giới rõ ràng hình thành từ lâu.

Tháng 3/2016, gia đình ông phát hiện ông Thông xây chuồng lợn trên phần đất phía sau giáp với Suối Củn thuộc quyền sử dụng của gia đình ông, gia đình đã yêu cầu ông Thông trả lại nhưng ông Thông không chấp nhận. Do vậy, gia đình ông đã khiêu nại đến chính quyền địa phương nhưng hòa giải không thành. Nay, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Thông, bà Hiệu trả lại quyền sử dụng đất đối với diện tích lấn chiếm là 48m2 trong tồng diện tích 87,6m2 theo bản đồ địa chính thửa năm 2015 là thửa số 211, tờ bản đồ 47 cho gia đình ông tiếp tục quản lý, sử dụng.

Sau khi có kết quả thẩm định ngày 14/5/2019, theo bản đồ hiện trạng đất tranh chấp với ông Thông được Văn phòng đãng ký đất đai tỉnh CB cung cấp thì tổng diện tích thửa đất của gia đình ông là 81,7m2 (đã trừ 5,5m2 diện tích thu hồi làm đường của dự án chương trình đô thị Miền núi phía Bắc của WB). Hiện tại diện tích nhà chỉ có 46,3m2, còn thiếu 35,4m2 so với đo đạc. Vì vậy, ông yêu cầu ông Thông phải trả lại diện tích đất 35,4m2

Bị đơn là ông Đinh Viết Thông trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là do bố mẹ ông là cụ Đinh Ích Văn (chết năm 1976) và cụ Đinh Thị Nâng (chết năm 1977) quản lý, sử dụng và để lại cho ông từ năm 1960. Bố mẹ ông chỉ có một người con duy nhất là ông, khi các cụ chết không để lại di chúc. Đất tranh chấp trước đây là con đường nhỏ đi xuống sông Suối Củn có chiều rộng khoảng l-2m, chiều dài song song với đất nhà cụ Pàng (là bố của ông Dũng), đất chỉ do gia đình ông sử dụng. Năm 1979, ông đi bộ đội, năm 1979 xuất ngủ về tiếp quản đất của bố mẹ, con đường đi không có sự thay đồi. Từ năm 1986 đến nay, nước lũ về bồi đắp mới hình thành nên phần đất tranh chấp như hiện nay. Ông trồng rau trên diện tích đất này. Năm 2005, ông xây chuồng lợn trên đất tranh chấp, ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích nhà đất ông đang ở, còn đất tranh chấp ông đang làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận nhưng chính quyền địa phương giải thích đó là đất vườn nên chưa được cấp cho ai nên ông không có giấy tờ. Ông không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

2. Kết quả giải quyết của Tòa án

Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS- ST ngày 13/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố CB quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện đòi quyền sử dụng đất của nguyên đơn Trịnh Anh Dũng đối với bị đơn ông Đinh Viết Thông và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hiệu; Buộc ông Đinh Viết Thông và bà Nguyễn Thị Hiệu phải trả lại phần đất đã lấn chiếm của Trịnh Anh Dũng là 8,2m2 tại thửa đất số 211, tờ bản đồ 47 Bản đồ địa chính năm 2015, phường SB, thành phố CB, tỉnh CB; Ông Trịnh Xuân Dũng có quyền liên hệ với ủy ban nhân dân thành phố CB để được xem xét giao quyền sử dụng đất là 27,2m2 tại thửa đất số 211, tờ bản đồ 47 Bản đồ địa chính năm 2015 phường SB, thành phố CB, tỉnh CB.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/02/2020 bị đơn Đinh Viết Thông có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.

Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2020/DS-PT ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh CB quyết định: Bác đơn kháng cáo của ông Đinh Viêt Thông. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 13/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố CB.

Ngày 25/8/2020, ông Đinh Viết Thông có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Ngày 18/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định kháng nghị sô 06/QĐKNGĐT-VC1-DS. Ngày 20/11/2021, ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân 

cấp cao tại Hà Nội: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiêm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, tuyên hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2020/DS-PT ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh CB và Bản án dân sư số 05/2020/DS- ST ngày 13/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố CB, tỉnh CB; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố CB giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. /

3. Những vi phạm cần rút kinh nghiệm

3. 1. Vi phạm về xác định đối tượng đất để công nhận quyền sử dụng đất:

Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thấm quyết định ông Trịnh Anh Dũng có quyền liên hệ với Ủy ban nhân dân thành phố CB, tỉnh CB đế được xem xét giao quyền sử dụng đất là 27,2m2 tại thửa số 211, tờ bản đồ số 47 bản đồ địa chính năm 2015 là chưa chính xác. Bởi lẽ, thực tế diện tích 27,2m2 được bồi đắp từ sau trận lũ năm 1986, vì là đất bãi bồi nên không đủ điều kiện để công nhận quyền sử dụng đất như đất khai phá mà phải thực hiện theo các quy định tại Điều 51, 52, 53, 54 Luật Đất đai năm 2013, Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và Điều 3, 4 số 30/2014/TT- TNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất.

3.2 Vi phạm về đánh giá chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:

Tại Công văn số 74/UBND ngày 02/5/2017 của Uỷ ban nhân dân phường SB xác định: Thực tế trước đây là dòng chảy của Suối Củn chảy đến sát đằng sau dãy nhà ông Thông, ông Định và các nhà xung quanh nhung do thời gian sử dụng nên được bồi đắp như hiện nay, còn việc xây dựng chuồng lợn của gia đình ông Thông, do phần diện tích xây dựng chuồng lợn đó nằm đằng sau các dãy nhà nên khônợ ai để ý và không ai biết rõ gia đình ông Thông đã xâv chuồng lợn khoảng năm nào. Như vậy đủ cơ sở để khẳng định việc xây chuồng lợn của nhà ông Thông là có trên thực tế và ông Thông đã xây dụng thời điểm nào chưa được làm rõ? Tại bản đồ địa chính năm 2015 (lúc đấy đã có dãy chuông lợn cùa ông Thông, bà Hiệu) khi đo đạc diện tích nhà ông Dũng không có ký giáp ranh Của nhà ông Thông, mặt khác do gia đình ông Dũng không ở trên đất, không quản lý nên diện tích đất tranh chấp không phải do gia đình ông Dũng bồi đăp, tôn tạo. Đông thời, ông Dũng mới chỉ làm nghĩa vụ với nhà nước diện tích theo tờ khai trước bạ. Diện tích 27,2m2 còn lại chưa có ai làm nghĩa vụ thuế với nhà nước, vẫn do ông Thông quản lý, sử dụng. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm và Tòa án cấp sơ thấm quyết định ông Trịnh Anh Dũng có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đối với 27,2m2 là chưa đủ căn cứ.

Tòa án câp sơ thẩm, phúc thẩm xét xử đã giải quyết vụ án chưa triệt để, áp dụng không đúng quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, gây khó khăn trong công tác thi hành án dẫn đến phải kháng nghị giám đốc thẩm hủy án sơ thẩm, phúc thẩm.


Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}