Vi phạm thủ tục tố tụng dân sự trong vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản

Thông qua giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản” giữa Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP TC Việt Nam với Bị đơn là Công ty TNHH thiết bị điện HV; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là cụ Trần Văn R, ông Trần Thanh L, bà Đào Thị Ch (vợ ông L), Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy Tòa án cấp phúc thẩm có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, cần thông báo để rút kinh nghiệm.

Vi phạm thủ tục tố tụng dân sự trong vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản

1. Tóm tắt nội dung vụ án và quá trình tiến hành tố tụng

Ngày 24/9/2012, Ngân hàng TMCP TC Việt Nam chi nhánh BK (viết tắt Ngân hàng) và Công ty TNHH thiết bị điện HV (viết tắt là Công ty HV) ký Hợp đồng tín dụng hạn mức số 11.12/HĐTD-DN. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty HV vay tiền với hạn mức 4.000.000.000đ, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng là 13,5%/ năm.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên gồm:

- Quyền sử dụng 83 7m2 đất thửa số 36, 36a, tờ bản đồ 62-IV và nhà ở gắn liền với đất (nhà 02 tầng, 01 tum) tại tổ 13, phường T, thành phố sc (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S341409 ngày 25/12/2000 của ủy ban nhân dân tỉnh TN cấp cho Hộ ông Trần Thanh L; Giấy phép xây dựng số 1026/GPXD ngày 09/9/2011), theo Hợp đồng thế chấp số 20.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012; được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định;

- Quyền sử dụng 100m2 thửa số 117, tờ bản đồ 49-IV tại tổ 03, phường T, thành phố sc (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 626016 ngày 01/11/2005 của ủy ban nhân dân thị xã SC (nay là ủy ban nhân dân thành phố SC) cấp cho bà Nguyễn Thị L và ông Đào Văn S), theo Họp đồng thế chấp số 19.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012; được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định.

- Xe ô tô hiệu TOYOTA CAMRY biển kiểm soát số 30Z-4346 thuộc sở hữu của anh Phạm Thanh H.

Do Công ty HV vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Công ty HV phải trả 2.870.000.000đ nợ gốc, 1.662.470.278đ tiền lãi trong hạn và 709.907.361đ tiền lãi quá hạn; tổng số là 5.242.377.639đ (tính đến ngày 20/6/2018) và tiền lãi phát sinh sau ngày 20/6/2018 theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký; đề nghị phát mại tài sản thế chấp trong trường hợp Công ty HV không trả được nợ.

Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện: đề nghị Tòa án không đưa bà Nguyễn Thị L và ông Đào Văn S vào tham gia tố tụng do bà L, ông S đã thanh toán xong phần dư nợ liên quan đến khối tài sản thế chấp của ông, bà; đồng ý cho anh H rút tài sản bảo đảm là chiếc xe ô tô, không yêu cầu Tòa án giải quyết; đề nghị phát mại tài sản bảo đảm do ông Trần Thanh L và bà Đào Thị Ch thế chấp cho Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp số 20.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012 trong trường hợp Công ty HV không trả được nợ.

Công ty HV xác nhận có ký Hợp đồng tín dụng và tổng số nợ gốc và lãi của Công ty đến thời điểm xét xử sơ thẩm như Ngân hàng trình bày, nhưng không đồng ý phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất đứng tên Hộ ông Trần Thanh L vì cụ Trần Văn R (bố ông L) là người có quyền lợi ở khối tài sản nêu trên nhưng không tham gia ký Hợp đồng thế chấp tài sản. Công ty HV nhất trí ý kiến của cụ R về yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số 20.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012 vô hiệu và yêu cầu Ngân hàng trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S341409 cho gia đình ông L.

Cụ Trần văn R và ông Trần Thanh L, bà Đào Thị Ch thừa nhận ông L, bà Ch có thế chấp tài sản là nhà, đất để Công ty HV vay tiền của Ngân hàng, nhưng không đồng ý xử lý tài sản thế chấp vì tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu, sử dụng của cụ Trần Văn R (nguồn tiền mua đất là của cụ R), ông L chỉ đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại sổ hộ khẩu của gia đình có 02 nhân khẩu là ông L và cụ R, nên việc cụ R không ký đảm bảo cho việc vay tiền là trái quy định của pháp luật; đề nghị tuyên Hợp đồng thế chấp vô hiệu, trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L, bà Ch và cụ R.

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 21/6/2018, Tòa án nhân dân thành phố SC, tình TN quyết định:

1. Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng đối với tài sản thế chấp của bà Nguyên Thị L và ông Đào Văn S. Đình chỉ một phần yêu cầu giải quyết vụ án của Ngân hàng đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của bà L và ông S.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với Công ty HV. Buộc Công ty HV có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 20/6/2018 là 5.242.377.639đ. Trong đó, nợ gốc là 2.870.000.000đ, nợ lãi trong hạn 1.662.470.278đ và lãi quá hạn 709.907.361đ.

Công ty HV phải tiếp tục chịu lãi kể từ sau ngày 20/6/2018 đối với khoản nợ gốc 2.870.000.000đ theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 11.12/HĐTD-DN ngày 24/9/2012 cho đến khi thanh toán xong.

3. Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc được thực hiện quyền kê biên phát mại tài sản bảo đảm trong Hợp đồng thế chấp số 20.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012 để xử lý thu hồi nợ cho khoản vay của Công ty HV, do Hợp đồng thế chấp bị vô hiệu. Buộc Ngân hàng có trách nhiệm trả lại đầy đủ giấy tờ có giá trị cho hộ gia đình ông Trần Thanh L (ông L đại diện) là 01 Giấy chứng nhận quyền sử dung đất số s 341409 do ủy ban nhân dân tỉnh TN cấp ngày 25/12/2000.

4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Trần Văn R. Tuyên bố: Hợp đồng thế chấp số 20.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012 giữa Ngân hàng với ông Trần Thanh L và bà Đoàn Thị Ch vô hiệu.

Tại Quyết định kháng nghị số 01/QĐKN-VKS-DS ngày 04/7/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố SC, tỉnh TN kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm đối với quyết định xử lý tài sản thế chấp của Hộ ông Trần Thanh L.

Ngày 03/7/2018, Ngân hàng có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm về phần xử lý tài sản thế chấp của ông Trần Thanh L và bà Đào Thị Ch.

Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TN rút toàn bộ Quyết định kháng nghị số 01/QĐKN-VKS-KDTM ngày 04/7/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố SC, tỉnh TN.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 04/2018/KDTM-PT ngày 13/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh TN quyết định: Huỷ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 21/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố SC, tỉnh TN. Giao hồ sơ về Tòa án nhân dân thành phố SC giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Sau xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TN có Báo cáo đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Ngân hàng có đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 18/11/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/QĐKNGĐT-KDTM đề nghị ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh TN xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/KDTM-GĐT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2018/KDTM-PT ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh TN; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh TN xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

2. Vi phạm cần rút kinh nghiêm

Theo Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hộ ông L thì nguồn gốc 837m2 đất thuộc thửa số 36, 36a, tờ bản đồ 62-IV tại tổ 13, phường T, thành phố sc, tỉnh TN là do ông L nhận chuyển nhượng của gia đình ông Phạm Văn Ng vào ngày 26/8/2000; được ủy ban nhân dân phường T xác nhận ngày 29/8/2000, Phòng địa chính thị xã SC xác nhận ngày 17/11/2000 và ủy ban nhân dân thị xã SC xác nhận ngày 20/11/2000. Cùng ngày 20/11/2000, ủy ban nhân dân thị xã SC có tờ trình số 461/TT-UB đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh TN cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hộ ông Trần Thanh L. Tại Công văn số 1482/CASC ngày 24/11/2017 của Công an thị xã SC và tài liệu cung cấp kèm theo thì sổ hộ khẩu của gia đình ông L thời điểm năm 2000 thể hiện: ngày 29/8/2000 ông L nhập hộ khẩu về phường Thắng Lợi, thị xã SC, tỉnh TN; ngày 28/11/2000, cụ Trần Văn R mới chuyển từ nơi khác tới nhập hộ khẩu vào cùng với ông L.

Ông L, bà Ch, cụ R và ông Th (con trai cụ R) khai nguồn tiền mua đất là của cụ R đưa cho ông Th và gia đình thống nhất cho ông L đứng tên. Tuy nhiên, tại Giấy nhận tiền ngày 07/6/1999 thể hiện nội dung ông Ng nhận của ông Th 16.500.000đ tiền bán nhà, đất và hoa màu nhưng không thể hiện diện tích và vị trí thửa đất; chỉ có ông Ng (là bên nhận tiền) ký nhận, các ông bà cũng không xuất trình được tài liệu nào khác chứng minh tiền mua nhà, đất tại tổ 13, phường T, thành phố SC là của cụ R và cụ R là đồng sở hữu của khối tài sản nêu trên.

Như vậy, tại thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất 26/8/2000 từ gia đình ông Ng sang ông L cho đến khi hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền 20/11/2000, cụ R không tham gia ký kết hợp đồng và cũng không cùng đứng tên trong sổ hộ khẩu chủ hộ là ông Trần Thanh L.

Do Quyền sử dụng đất diện tích 837m2 và nhà ở gắn liền với đất thuộc thửa số 36, 36a, tờ bản đồ 62-IV địa chỉ tại tổ 13, phường T, thành phố SC, được ủy ban nhân dân tỉnh TN cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S341409 cho hộ ông Trần Thanh L là hợp pháp nên Hợp đồng thế chấp số 20.12HĐTC-CN ngày 21/9/2012 giữa Bên nhận thế chấp - Ngân hàng Công thương và Bên thế chấp - ông Trần Thanh L, bà Đào Thị Ch, đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật phát sinh hiệu lực. 

Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp nêu trên là không đúng. Bản án phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng nhưng lại không sửa Bản án sơ thẩm về nội dung này mà tuyên hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại với lý do “cấp sơ thẩm vi phạm về đường lối giải quyết mà không thể khắc phục được tại cấp phúc thẩm” là không đúng quy định về căn cứ huỷ án quy định tại khoản 3 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TN có ý kiến rút toàn bộ nội dung kháng nghị số 01/QĐKN ngày 04/7/2018 của Viện trưởng VKSND thành phố SC, nhưng Tòa án nhân dân tỉnh TN không đình chỉ xét xử phúc thẩm là vi phạm khoản 2 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trên đây là những vi phạm cần rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giải quyết “Tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để các Viện kiểm sát địa phương trong khu vực cùng tham khảo, rút kinh nghiệm.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}