Xác định di sản thừa kế không đúng, không xem xét nhu cầu về nhà ở của đương sự trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Thực hiện chức năng kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, buộc tháo dỡ công trình trên đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn anh Dương Văn Ca, chị Dương Thị Thuyên và bị đơn là ông Dương Văn Hiệp do Tòa án nhân dân huyện SB, tỉnh LS  xét xử sơ thẩm. Viện kiếm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thấy:

Tranh chấp quyền sử dụng đất, buộc tháo dỡ công trình trên đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
1. Tóm tắt nội dung vụ án

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn anh Dương Văn Ca và chị Dương Thị Thuyên trình bày. Nguồn gốc thửa đất tên CM thuộc thôn BT, xã CV, huyện SB, tỉnh LS  (nay là thửa số 48, tờ bản đồ số 39) do ông, bà chia cho bố mẹ là ông Dương Văn Nhâm và bà Dương Thị Vây từ năm 1983, gia đình canh tác liên tục không có ai tranh chấp. Năm 2009, gia đình giao cho anh Ca, chị Thuyên làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, ngày 31/10/2010 Ủy ban nhân dân huyện SB đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình anh Dương Văn Ca và chị Dương Thị Thuyên.

Ông Dương Văn Hiệp (là chú của anh Dương Văn Ca) đã được bố mẹ chia đất năm 1997, ông Hiệp đã chuyển nhượng hết nhà đất và đi nơi khác. Ngày 28/9/2012, ông Hiệp đã phát bờ rào nương sau đó xây dựng nhà và công trình phụ trái phép trên thửa đất CM của anh chị. Sự việc đã được thôn  BT và UBND xã CV tổ chức hòa giải nhưng không có kết quả. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Hiệp phải trả lại thửa đất số, 48, bản đồ số 39 thôn BT xã CV và buộc ông Hiệp tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép trên thửa đất.

Bị đơn ông Dương Văn Hiệp trình bày. Bố mẹ ông có 07 con chung là ông Dương Văn Bằng, Dương Thị Lạng, Dương Văn Noa, Dương Văn Nhâm, Dương Văn Bổn (đã hi sinh, không có vợ con), Dương Văn Năm và ông Hiệp là con út. Năm 1982, bố mẹ ông chia đất cho 03 người con trai là ông Băng, ông Nhâm và ông. Năm 1992, bố ông chết, năm 1997 mẹ ông chết. Ông được chia 03 thửa đất trong đó có thửa đất CM đã được giao cho ông Dương Văn Bằng (anh trai cả) canh tác và giữ đất hộ. Năm 1991, do ông Nhâm nói với ông Bằng, ông đã chuyển nhượng lại thửa đất CM cho ông Nhâm, ông Băng không biết nên đã để cho ông Nhâm canh tác trên đất.

Ông Hiệp yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện SB đã cấp cho anh Ca, chị Thuyên tại thửa 48 tờ bản đồ 39 diện tích 520m2 và yêu cầu anh Ca, chị Thuyên trả cho ông được quản lý sử dụng thửa đất trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Dương Văn Nhâm (bố của anh , Dương Văn Ca) trình bày: Từ năm 1983, bố mẹ chia cho ông thửa đất CM, việc phân chia không có văn bản mà chỉ có sự chứng kiến của anh em trong gia đình. Ông đã canh tác liên tục không có tranh chấp ruộng nương cho 4 người con trong đó ông được chia đất CM, không có ai thắc mắc và canh tác từ năm 1983 đến nay. Năm 2009 giao cho con trai và con dâu là Dương Văn Ca, Dương Thị Thuyên kê khai và được cấp GCNQSDĐ ngày 31/11/2010. Năm 2012 ông Hiệp tranh chấp, UBND xã hòa giải 4 lần nhưng không thành.

Các ông bà Dương Thị Lạng, Dương Văn Noa, Dương Văn Năm trình bày thửa đất CM bố mẹ không chia cho người con nào, ông Nhâm canh tác thửa đất từ 1991 đến nay, các ông bà không có yêu cầu đối với thửa đất tranh chấp.

2. Quyết định của Tòa án

Bản án dân sự sơ thẩm số 01/20Ỉ8/DS-ST ngày 14/3/2018 của Tòa án huyện SB, tỉnh LS  xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Dương Văn Ca, chị Dương Thị Thuyên với ông Dương Văn Hiệp.

Công nhận quyền sở hữu, sử dụng đất tại thửa số 48, tờ bản đồ số 39, diện tích 520m2 tại xã CV, huyện SB đã cấp GCNQSDĐ cho hộ anh Ca, chị Thuyên. Buộc ông Dương Văn Hiệp tháo dỡ toàn bộ các công trình xây dựng nhà và các công trình phụ đã xây trái phép trên thửa đất số 48.

Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Dương Văn Hiệp đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ anh Dương Văn Ca, chị Dương Thị Thuyên đối với thửa đất sổ 48 tờ ban đồ số 39 diện tích sử dụng là 520m2 bản đồ địa chính xã CV, huyện SB.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về nghĩa vụ thi hành án và án phí.

Ngày 15/3/2019 ông Dương Văn Hiệp có đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án 01/DS- ST ngày 14/3/2018 Tòa án nhân dân huyện SB, tỉnh LS .

Ngày 02/3/2021, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án nêu trên.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 38/DS-GĐT ngày 23/6/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên để giải quyết lại.

3. Nội dung cần rút kinh nghiệm

3.1. Xác định di sản thừa kế không đúng:

về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp (có tên gọi CM) là thửa số 48 tờ bản đồ số 39 diện tích 520m2 tại thôn BT, xã CV, huyện SB, tỉnh LS  có nguồn gốc là đất khai phá của bố mẹ các ông, bà Dương Văn Bằng, Dương Thị Lạng, Dương Văn Noa, Dương Văn Nhâm, Dương Văn Bốn (đã hi sinh, không có vợ con), Dương Văn Năm và Dương Văn Hiệp. Các ông bà nêu trên cho rằng khi còn sống, bố mẹ đã chia đất cho các con, nhưng đối với thửa đất tranh chấp nêu trên, theo ông Nhâm bố mẹ đã chia cho ông, nhưng có lời khai ông Nhâm lại cho rằng nhận chuyên nhượng của ông Hiệp. Theo ông Hiệp và ông Bằng thì bố mẹ đã chia đất cho ông Hiệp 3 thửa. Năm 1997, ông Hiệp bán 2 thửa để đi ở nơi khác còn thửa đất tranh chấp ông Hiệp nhờ ông 

Bằng quản lý, canh tác từ khi được chia đến năm 1992. Sau đó, ông Nhâm nói đã mua của ông Hiệp nên ông Bằng mới giao thửa đất cho ông Nhâm canh tác. Ông Noa, bà Lạng, ông Năm trình bày không biết bố mẹ chia thửa đất này cho ai và không có yêu cầu đối với thửa đất. Mặt khác, lời khai của ông Nhâm, ông Hiệp và ông Bằng về thời gian sử dụng thửa đất từ năm 1982 đến năm 1992 cũng có nhiều mâu thuẫn. Ông Bằng xác định ông là người canh tác và quản lý thửa đất từ năm 1983 đến năm 1992 mới giao cho ông Nhâm. Nhưng ông Nhâm lại cho rằng ông sử dụng đất từ năm 1982 đến năm 1992, sau đó cho vợ chồng anh Ca, chị Thuyên.

Từ lời khai của các đương sự như đã nêu trên, có căn cứ xác định thửa đất CM là của bố mẹ ông Hiệp, ông Nhâm để lại và chưa có căn cứ xác định ông Nhâm hay ông Hiệp được bố mẹ chia cho từ năm 1982. Nên phải xác định thửa đất tranh chấp là di sản thừa kế của bố mẹ ông Nhâm và ông Hiệp chưa chia và thuộc sở hữu chung của ông Nhâm và ông Hiệp (do các đồng thừa kế khác không có yêu cầu chia đối với thửa đất). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận anh Ca và chị Thuyên có quyền sử dụng thửa đất CM là chưa có căn cứ vững chắc.

3.2. Không xem xét nhu cầu về nhà ở của đương sự.

Thửa đất tranh chấp có trị giá 198.999.181 đồng, trên đất có nhà xây cấp bốn, tường bao do ông Hiệp xây dựng năm 2012 có giá trị 181.937.523 đồng. Theo xác nhận của chính quyền địa phương thì ông Hiệp không có chỗ ở nào khác và không có thửa đất nào để sử dụng làm nhà ở ngoài thửa đất đang tranh chấp, trong khi có cơ sở xác định thửa đất tranh chấp là di sản thừa kế của bố mẹ ông Nhâm, ông Hiệp chưa chia và thuộc sở hữu chung của ông Nhâm và ông Hiệp như đã nêu trên. Vì vậy, bản án sơ thẩm buộc ông Hiệp phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng là chưa hợp tình, hợp lý, không đảm bảo quyền lợi cho ông Hiệp.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}