Vi phạm về xác định hiệu lực hợp đồng, thu thập chứng cứ vụ án tranh chấp hợp đồng ủy quyền

Thông qua trình giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền” giữa nguyên đơn bà Lê Thị Thanh Hải với bị đơn ông Vũ Quang Hiệu và bà Trần Thị Nhâm, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã có những vi phạm trong việc xác định hiệu lực của hợp đồng; thu thập và đánh giá chứng cứ dẫn đến giải quyết vụ án không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, cụ thể như sau:

Vi phạm về xác định hiệu lực hợp đồng, thu thập chứng cứ vụ án tranh chấp hợp đồng ủy quyền

1. Nội đung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm, phúc thẩm

Ông Hiệu và bà Nhâm là người có quyền sử dụng khu đất tại tổ 46 (nay là tổ 10), phường ĐT, thành phố BY, tỉnh BY. Tại các Quyết định số 1270/QĐ-UBND ngày 21/10/2005; Quyết định số 763/QĐ-UBND ngày 30/5/2007 và Quyết định số 610/QĐ-UBND ngày 13/4/2017 của ủy ban nhân dân tỉnh BY đã thu hồi tống cộng 628,9m2 đất ở và 385,2m2 đất vườn của hộ gia đình ông Hiệu, bà Nhâm. Sau khi thu hồi, diện tích đất trên được ủy ban nhàn dân thành phố BY, tỉnh BY cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Bùi Minh Lực, bà Nguyễn Thị Hiền. Ông Hiệu và bà Nhâm đã khiếu nại các quyết định thu hồi đất nêu trên nhưng không được các cơ quan chức năng chấp nhận nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh BY.

Ngày 06/02/2018, ông Hiệu và bà Nhâm (Bên A) lập Hợp đồng ủy quyền có thù lao cho bà Lê Thị Thanh Hải (Bên B) với nội dung: Bên A là chủ sử dụng diện tích đất tại tổ 46 (nay là tổ 10), phường Đông Tám, thành phố BY, tỉnh BY bị thu hồi theo Quyết định số 1270/QĐ-UBND ngày 21/10/2005 của ủy ban nhân dân tỉnh BY, được điều chỉnh theo các Quyết định số 763/QĐ- UBND ngày 30/5/2007; Quyết định số 610/QĐ-UBND ngày 13/4/2017 của Uỷ ban nhân dân tỉnh BY. Bên A ủy quyền cho Bên B được thay mặt và nhân danh Bên A làm việc với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan, làm các thủ tục pháp lý và ký các giấy tờ cần thiết để giải quyết rõ ràng về mặt pháp lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Bên A. Bên A trà thù lao cho Bên B bằng 40% giá trị bất động sản mà Bên A được hưởng quy định tại hợp đồng này. Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng và chấm dứt khi các bên đã thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ của mình.

Ngày 07/02/2018, ông Hiệu ủy quyền cho bà Hải tham gia tố tụng vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” giữa người khởi kiện là ông Hiệu, bà Nhâm với người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh BY đã được Tòa án nhân dân tỉnh BY thụ lý giải quyết ngày 30/01/2018 và ngày 3 1/01/2018.

Tại Biên bản thỏa thuận ngày 34/11/2018 giữa vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm với với chồng ông Lực, bà Hiền có sự tham gia của ủy ban nhân dân tỉnh BY, Ủy ban nhân dân thành phổ BY, thể hiện: Vợ chồng ông Lực, bà Hiền đồng ý chuyển nhượng cho vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm 07 lô đất với tổng diện tích 560m2; vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm không phải thanh toán tiên nhận chuyển nhượng và các khoản thuế, phí liên quan đến việc chuyên nhượng nêu vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm rút đơn khởi kiện tại Tòa án. Ngày 24/11/2018, ông Hiệu và bà Nhâm có đơn rút yêu cầu khởi kiện nên Tòa án nhân dân tỉnh BY đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 07/2018/QĐST-HC ngày 24/1 1/2018.

Bà Hải cho rằng đã thực hiện xong công việc theo Hợp đồng ủy quyền nhưng vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm không trả thù lao theo cam kết ghi trong hợp đồng nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm trả thù lao với tổng số tiền 11.200.000.000 đồng (40% giá trị của 07 lô đất).

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/TCDS-ST ngày 13/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố BY, tỉnh BY quuết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thanh Hải. Buộc ông Vũ Quang Hiệu, bà Trần Thị Nhâm trả thù lao cho bà Lê Thị Thanh Hải số tiền 11.200.000.000đ. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Lê Thị Thanh Hải về việc hủy hai Hợp đồng chuyên nhượng quyển sử dụng đất giữa Ông Vũ Quang Hiệu, bà Trần Thị Nhâm với Ông Lương Đức Long, ông Phí Văn Vọng (nêu có tranh chấp thì có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật).

Ông Hiệu và bà Nhâm kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Bản án dân sự phúc thẩm số 08/2020/DS-PT ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh BY quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Vũ Quang Hiệu và bà Trần Thị Nhâm. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 04/2020/TCDS-ST ngày 13/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố BY, tỉnh BY.

Ông Hiệu và bà Nhâm có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Ngày 18/02/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 08/2020/DS-PT ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh BY theo hướng hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 34/2021/DS-GĐT ngày 22/6/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiêm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 08/2020/DS-PT ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh YB và Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 13/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố BY, tỉnh BY; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố BY xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

2. Những nội dung vi phạm cần rút kinh nghiệm

2.1. Vi phạm về xác định hiệu lực của Hợp đồng ủy quyền

Ngày 06/02/2018, ông Hiệu và bà Nhâm đã ký Hợp đồng ủy quyền với bà Hải. Nội dung của hợp đồng ủy quyền thể hiện việc hai bên đã trao đổi, thống nhất xác nhận và ký kết hợp đồng ủy quyền có thù lao giữa các bên là tự nguyện. Mục đích và nội dung hợp đồng đã xác lập là hợp pháp, đúng quy định tại các Điều 562 đến Điều 569 Bộ luật dân sự . về hình thức, mặc dù pháp luật không quy định hợp đồng ủy quyền phải công chứng, chứng thực, đăng ký. Tuy nhiên, tại Điều 4 (Cam kết của các bên) trong hợp đồng ủy quyền nêu trên ông Hiệu, bà Nhâm và bà Hải có thỏa thuận “Hợp đồng này có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng và chấm dứt khi các bên đã thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ của mình ”. Do đó, xác định các bên đã thống nhất, tự nguyện lựa chọn công chứng hợp đồng ủy quyền là điều kiện phát sinh của hiệu lực của Hợp đồng ủy quyền. Thỏa thuận này xuất phát từ ý chí tự nguyện của các bên, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên phải được thực hiện. Tuy nhiên, các bên không thực hiện việc công chứng nên theo quy định tại Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015 thì Hợp đồng ủy quyền nêu trên chưa phát sinh hiệu lực.

2.2. Vi phạm về việc thu thập chứng cứ.

Tại Hợp đồng ủy quyền ngày 06/02/2018, vợ chồng ông Hiệu, bà Nhâm và bà Hải còn thỏa thuận bà Hải thay mặt ông Hiệu, bà Nhâm làm việc với các Cơ quan Nhà nước và các bên liên quan, làm các thủ tục pháp lý và ký các giấy tờ cần thiết để giải quyết rõ ràng về mặt pháp lý, bảo vệ quyền lợi của ông Hiệu, bà Nhâm đối với diện tích đất bị thu hồi, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, bà Hải không xuất trình được các tài liệu, chứng minh việc bà Hài đã thay mặt ông Hiệu, bà Nhâm làm việc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong khi đó, vụ án hành chính do ông Hiệu, bà Nhâm khởi kiện được Tòa án thụ lý ngày 30/01/2018 và 31/01/2018, đến ngày 07/02/2018 ông Hiệu mới ủy quyền cho bà Hải tham gia tố tụng. Mặt khác, tại Biên bản thỏa thuận ngày 24/11/2018, bà Hải không tham gia với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của ông Hiệu, bà Nhâm và cũng không có chữ ký của bà Hải tại biên bản thỏa thuận này. Việc đàm phán trực tiếp với ông Lực, bà Hiên, các cấp chính quyền là do ông Hiệu và bà Nhân tự thực hiện. Đơn rút yêu cầu khởi kiện ngày 24/11/2018 cũng do ông Hiệu, bà Nhâm thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ nội dung công việc mà bà Hải đã thực hiện và các chi phí thực tế mà bà Hải đã bỏ ra để bảo vệ quyền lợi của ông Hiệu, bà Nhâm mà đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hải là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Hiệu, bà Nhâm.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu lên đề Viện kiểm sát nhân dân địa phương nghiên cứu rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng giải quyết vụ án dân sự./.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}