Trạnh chấp quyền sử dụng đất, tuyên bố hợp đồng vô hiệu, kiện đòi tài sản, đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Thực hiện chức năng kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tuyên bố hợp đồng vô hiệu, kiện đòi tài sản, đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” giữa nguyên đơn ông Hoàng Vũ Nhơn, bà Nguyễn Thị Lân và bị đơn bà Đậu Thị Quang do Tòa án nhân dân tỉnh AN xét xử sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thấy:

Tranh chấp quyền sử dụng đất, tuyên bố hợp đồng vô hiệu, kiện đòi tài sản, đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồn

1. Tóm tắt nội dung vụ án:

Theo đơn khởi kiện ngày 01.8.2016, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông Hoàng Vũ Nhơn và bà Nguyễn Thị Lân trình bày:

Năm 1996 gia đình ông Nhơn, bà Lân có nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Sỹ thửa đất số 1333, diện tích 100m2, thửa đất này đã được UBND huyện LN giao đất xây dựng nhà ở tại QĐ số 2771 ngày 10/10/1994 mang tên ông Nguyễn Văn Sỹ. Hai bên đã làm giấy có xác nhận của ông Việt, xóm trưởng xóm 3 (thời kỳ đó) và ông Sỹ đã giao Quyết định 2771 cho ông. Sau đó ông phát hiện con trai ông là anh Hoàng Mạnh Hùng mang quyết định trên chuyển nhượng cho bà Đậu Thị Quang, ông đã đi chuộc lại nhưng bà Quang không đồng ý.

Nay ông Nhơn, bà Lân khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc bà Quang phải trả lại Quyết định số 2771 ngày 10/10/1994 của UBND huyện LN cho ông. Đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Quang với anh Hoàng Mạnh Hùng là vô hiệu. Buộc bà Quang phải trả lại cho ông tiền bồi thường GPMB đã nhận là 4.375.000 đồng.

Bị đơn là bà Đậu Thị Quang trình bày: Năm 1995, anh Hoàng Mạnh Hùng có nhu cầu chuyển nhượng đất và cho bà xem quyết định đứng tên ông Sỹ hai bên có đến hỏi ông Việt (xóm trưởng) thì ông Việt nói mua được nên thống nhất chuyển nhượng với giá 21.000.000 đồng, hai bên có viết giấy tay và anh Hùng đã chuyển QĐ 2771 của UBND huyện LN cho bà. Tháng 10/1995 anh Hùng có vay tiếp 10.000.000 đồng lãi suất 3%. Từ đó đến nay do chưa có điều kiện nên hai bên chưa làm tiếp các thủ tục chuyển nhượng. Việc mua bán chuyển nhượng đã hoàn thành nên bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Anh Hoàng Mạnh Hùng vắng mặt tại Tòa án nhưng các tài liệu có tại hồ sơ, đơn trình bày gửi Tòa án thể hiện: Khoảng năm 1995-1996 do vợ chồng anh ly hôn, anh sa vào nghiện ngập nên đã lấy quyết định mang tên ông Sỹ của bố anh (ông Nhơn) lên cắm cho bà Đậu Thị Quang lấy 10.000.000 đồng lãi suất 6%. Khoảng vài năm sau không có tiền trả, nên bà Quang gọi đến yêu cầu viết giấy bán đất và đưa thêm 5.000.000 đồng. Do cần tiền nên anh có viết giấy bán 21.000.000 đồng nhưng thực tế chỉ lấy tiền là 15.000.000 đồng. Năm 2001, anh có đến xin trả tiền 15.000.000 đồng và lãi để lấy lại quyết định nhưng bà Quang không cho.

Kết quả điều tra xác minh đối với ông Nguyễn Văn Việt (xóm trưởng và là con ông Nguyễn Văn Sỹ) thì bố anh có thửa đất trên đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh Hùng, chị Cúc, thấy chị Cúc là người trả tiền nhưng ông Nhơn làm thủ tục và giữ quyết định. Sau này anh Hùng đã cắm nợ cho bà Quang lấy tiền 2 lần là 20.000.000 đồng.

2. Quyết định của Tòa án

Bản án sơ thẩm số 14/2019/DS-ST ngày 04/10/2019 của TAND tỉnh AN quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Vũ Nhơn và bà Nguyễn Thị Lân, buộc bà Đậu Thị Quang phải trả lại bản gốc Quyết định số 2771 QĐ/ƯB ngày 10/10/1994 của UBND huyện LN tỉnh AN về việc giao cho ông Nguyễn Văn Sỹ được sử dụng 100m2 đất tại xã NK để sử dụng xây nhà ở cho ông Hoàng Vũ Nhơn và bà Nguyễn Thị Lân.

Tuyên bố giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng thửa đất số 1333, diện tích 100m2 giữa anh Hoàng Mạnh Hùng và bà Đậu Thị Quang vô hiệu.

Buộc anh Hoàng Mạnh Hùng phải trả lại cho bà Đậu Thị Quang số tiền 21.000.000 đồng. Buộc ông Hoàng Vũ Nhơn và anh Hoàng Mạnh Hùng phải bồi thường thiệt hại cho bà Đậu Thị Quang số tiền 425.000.000 đồng. Tổng 2 khoản ông Nhơn, anh Hùng phải thanh toán cho bà Quang là 446.000.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Vũ Nhơn và bà Nguyễn Thị Lân về việc buộc bà Đậu Thị Quang phải trả lại số tiền đề bù 4.375.000 đồng và 1.688.000.000 đồng bồi thường thiệt hại do 20 năm không được sử dụng đất. Ngoài ra bản án còn tuyên án phí, lãi suất chậm thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 18/10/2019 ông Hoàng Vũ Nhơn kháng cáo.

Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 34/QĐKNPT-VC1-DS ngày 01/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại.

Bản án dân sự phúc thẩm số 05/2021/DS-PT ngày 13/01/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã xét xử hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh AN để giải quyết lại.

3. Nội dung cần rút kinh nghiệm

3.1. Xác định tư cách tham gia tố tụng và việc triệu tập đương sự không đúng.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Hoàng Mạnh Hùng là bị đơn, nhưng anh Hùng là người đã chuyển nhượng diện tích đất tranh chấp tại thửa 1333, diện tích thực tế 85m2 mang tên ông Nguyễn Văn Sỹ (theo các đương sự khai ông Sỹ đã chuyển nhượng cho ông Hoàng Văn Nhơn bố của anh Hùng). Ông Hoàng Văn Nhơn, bà Nguyễn Thị Lân khởi kiện bà Đậu Thị Quang người nhận chuyển nhượng diện tích đất đang tranh chấp từ anh Hùng và xác định anh Hùng cũng là bị đơn trong vụ án là chưa chính xác, anh Hùng chỉ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Ông Nguyễn Văn Lưu - chồng bà Quang trình bày anh Hùng có nợ vợ chồng ông một số tiền, nên đã bán miếng đất đứng tên Nguyễn Văn Sỹ cho vợ 2 chồng ông. Tòa án chưa xác minh làm rõ số tiền anh Hùng vay là tài sản riêng của bà Quang hay tài sản chung của bà Quang và ông Lưu, anh Hùng chuyến nhượng thửa đất tranh chấp cho bà Quang hay cho vợ chồng bà Quang. Nếu số tiền vay là của vợ chồng bà Quang và ông Lưu, anh Hùng chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà Quang, ông Lưu có ý kiến như thế nào đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để triệu tập ông Nguyễn Văn Lưu tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Ngoài ra, thửa đất tranh chấp quyết định vẫn đứng tên ông Sỹ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập giấy chứng tử của ông Sỹ. Cũng chưa làm rõ thửa đất tranh chấp là tài sản riêng của ông Sỹ hay là tài sản chung của vợ chồng ông Sỹ hay hộ gia đình ông Sỹ. Nếu là tài sản chung cần có ý kiến của họ về việc ông Sỹ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nhơn và triệu tập họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Hồ sơ vụ án thể hiện anh Hùng hiện đang sống và làm việc tại Thụy Điển, Tòa án đã lập hồ sơ ủy thác tư pháp để tống đạt văn bản tố tụng cho anh Hùng nhưng không có kết quả. Theo quy định tại khoản 3 Điều 474, khoản 5 Điều 477 BLTTDS năm 2015 đối chiếu với các quy định đã viện dẫn trên với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thấy rằng sau khi tiến hành ủy thác tư pháp không có kết quả, Tòa án chưa tiến hành niêm yết tại nơi cư trú cuối cùng của anh Hùng tại Việt Nam. Quá trình giải quyết vụ án anh Hùng không có giấy ủy quyền hợp lệ cho người khác tham gia tố tụng, nhưng đã tiến hành xét xử vắng mặt anh Hùng là không đúng quy định tại khoản 5 Điều 477 BLTTDS.

3.2. Vi phạm trong việc xác định chứng cứ.

Theo hồ sơ vụ án thu thập, đơn trình bày nội dung có liên quan của anh Hoàng Mạnh Hùng chưa được hợp pháp hóa lãnh sự và đơn trình bày ngày 16/10/2008 có 04 dấu vân tay của anh Hùng nhưng Tòa án cũng không tiến hành giám định mà lấy đó làm chứng cứ là không đúng quy định của BLTTDS.

3.3. Chưa làm rõ diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ai.

Nguyên đơn ông Hoàng Vũ Nhơn trình bày ông Nguyễn Văn Sỹ là người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nhơn, còn ông Nguyễn Văn Việt (xóm trưởng cũng là con ông Nguyễn Văn Sỹ) khai bố ông đã chuyển nhượng đất cho vợ chồng anh Hùng, chị Cúc thấy chị Cúc là người trả tiền nhưng ông Nhơn làm thủ tục và giữ quyết định. Bản án hôn nhân gia đình số 12/HNGĐ-ST ngày 24/8/1998 của Tòa án nhân dân thành phố V nhận định “thửa đất nêu trên do anh Hùng, chị Cúc mua của ông Sỹ giá 32.000.000 đồng chưa làm thủ tục sang tên, anh Hùng đã cắm bìa đất cho người khác nên đã giao cho anh Hùng quyển sở hữu 32.000.000 đồng mua đất của ông Sỹ”. Mặt khác, bản án sơ thẩm nhận định “có đủ căn cứ kết luận việc chuyến nhượng đất giữa ông Sỹ với anh Hùng, chị Cúc trong vụ án ly hôn năm 1998 thế hiện anh Hùng, chị Cúc mua, trả tiền nhưng chưa làm thủ tục sang tên, các thủ tục giấy tờ lại do ông. Nhem (bố anh Hùng) làm và giữ”. Bản án sơ thẩm quyết định: “Buộc bà Đậu Thị Quang phải trả lại bản gốc Quyết định sổ 2771-QĐ/UB ngày 10/10/1994 của Ủy ban nhân dân huyện LN, tỉnh AN về việc giao cho ông Nguyễn Văn Sỹ được sử dụng 100m2 đất tại xã NK để sử dụng xây nhà ở cho ông Hoàng Vũ Nhơn và bà Nguyễn Thị Lân ”. Như vậy, hiện nay ông Sỹ đã mất, đến thời điểm giải quyết vụ án, diện tích đất tranh chấp vẫn đứng tên ông Nguyễn Văn Sỹ, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định rõ thửa đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nhơn hay anh Hoàng Mạnh Hùng.

3.4. Vi phạm trong việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:

Thửa đất tranh chấp thực trạng hiện nay là 85m2 giá trị hiện tại trừ tiên ông Hùng bán là nhỏ hơn, do trước đây anh Hùng bán 21.000.000 đồng, nên thiệt hại là (85m2 x10.000.000 đồng/m2 - 21.000.000 đồng) = 829.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm ông Nhơn tự nguyện đồng ý chịu trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ của anh Hùng, lẽ ra phải ghi nhận trong bản án. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm nhận định anh Hùng và bà Quang có lỗi ngang nhau, mỗi bên phải chịu 1/2 nên anh Hùng phải bồi thường thiệt hại cho bà Quang số tiền 414.500.000 đồng, nhưng bản án sơ thẩm buộc ông Hoàng Vũ Nhơn và anh Hoàng Mạnh Hùng phải bồi thường thiệt hại cho bà Đậu Thị Quang số tiền 425.000.000 đồng là không đúng ý chí của ông Nhơn.

Với những nhận định mâu thuẫn như trên bản án sơ thẩm cho rằng có căn cứ xác định việc chuyển nhượng đất giữa ông Sỹ và anh Hùng, chị Cúc trả tiền nhưng thủ tục lại do ông Nhơn làm và giữ. Từ đó buộc bà Quang phải trả lại quyết định diện tích đất 100m2 (hiện tại còn 85m2 do đã bị nhà nước thu hồi một phần). Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu theo quy định các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nhưng bản án sơ thẩm không tuyên diện tích 85m2 đất phải trả cho ai mà chỉ tuyên bà Quang phải trả lại cho ông Hoàng Vũ Nhơn và bà Nguyễn Thị Lân bản gốc Quyết định 2771 về việc giao đất cho ông Nguyễn Văn Sỹ là chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Hơn nữa, bản án quyết định buộc ông Nhơn và anh Hùng bồi thường thiệt hại cho bà Quang tổng số tiền 446.000.000đ nhưng không chia kỷ phần từng người là không thể thi hành án được.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo để Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự./.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}