Vi phạm trong việc không xem xét đầy đủ yêu cần khởi kiện của đương sự, xác định tải sản chung và chia tài sản trong vụ án ly hôn

Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đầy đủ các yêu cầu của đương sự cũng như xác định tài sản chung của vợ chồng để chia sau ly hôn không đúng, gây thiệt hại cho các đương sự, cụ thể như sau:

không xem xét đầy đủ các yêu cầu của đương sự

1. Nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm

Bà Thuận và ông Lợi kết hôn năm 1992 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn khoảng hai mươi năm thì hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, do không còn tình cảm bà Thuận làm đơn xin ly hôn.

Về tài sản chung, có nguồn gốc như sau: Cụ Chang và cụ Thường (bố mẹ đẻ ông Thuận) được cấp 1.364 m2 đất ở tờ bản đồ số 50, sơ đồ 299 tại khu 5, phường Vân Phú, thành phố VT, tỉnh PT. Năm 1988, cụ Thường chết. Các khoản tiền thuế đất và thuế ruộng cụ Chang đều đưa tiền cho ông Lợi đi nộp. Năm 1992, ông Lợi lấy vợ và ở trên đất của các cụ. Năm 2002, khi nhà nước có chủ trương, ông Lợi tự ý đi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bằng văn bản ủy quyền mà không có sự bàn bạc với cụ Chang) và đã được cấp. Năm 2004, nhà nước thực hiện dự án xây dựng trường Đại học HV, thu hồi toàn bộ 1.364 m2 đất ở nêu trên và giao 300 m2 đất tái định cư Gò Na, phường Vân Phú, thành phố VT cho hộ ông Lợi theo Quyết định số 1478/QĐ-UBND ngày 8/2/2010. Sau đó, vợ chồng ông Thuận, bà Lợi bán 100 m2 đất cho anh Đào Hoài Nam, đến nay các bên không yêu cầu giải quyết đối với 100 m2 này và thỏa thuận sẽ làm thủ tục sang tên cho anh Nam. Tài sản là 200 m2 đất ở tái định cư còn lại (đang tranh chấp) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ ông Lợi, bà Thuận. Nay ly hôn, bà Thuận đề nghị tòa án chia cho bà một phần đất ở, một số tài sản và chia đôi phần đất ruộng. Ông Lợi và cụ Chang đều đề nghị hủy Quyết định số 1478/QĐ-UBND ngày 8/02/2010 của UBND thành phổ VT, tỉnh PT về việc giao đất tái định cư (trong đó có 200 m2 đất ở đã đứng tên hộ ông Lợi bà Thuận) để trả lại đất cho cụ Chang; chia phần đất ruộng theo quy định của pháp luật vì đất ruộng là chia theo khẩu từ 1988-1992 gồm có cụ Chang, ông Lợi, bà Thuận, bà Chiển (em ông Lợi) và cháu Yến.

Bản án sơ thẩm số 60/2019/HNGĐ-ST ngày 16 tháng 8 năm 2019 của TAND tỉnh PT quyết định: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị Thuận. Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Lê Thị Thuận và ông Đào Văn Lợi. Các con chung của ông và bà đã trưởng thành, nên Tòa án không giải quyết, về tài sản chung vợ chồng: ông Lợi được giao tài sản 100 m2 01 nhà hai tầng xây dựng trên diện tích 100 m2 đất. Tổng tài sản của ông Lợi được giao là 682.400.000 đồng. Bà Thuận được giao 100m2 đất; công trình phụ xây dựng, nhà kho trên diện tích 100m2. Tổng giá trị tài sản bà Thuận được nhận là 376.490.000 đồng. Ông Lợi phải thanh toán cho bà Thuận 66.000.000 đồng tiền chênh lệch giá trị tài sản; thanh toán cho cụ Trang 116.655.000 đồng. Bà Thuận phải thanh toán cho cụ Trang 116.655.000 đồng. Công nhận việc mua bán đất giữa ông Lợi, bà Thuận với ông Nam là hợp pháp.

Sau xét xử sơ thẩm, ông Lợi đồng thời là đại diện theo ủy quyền của cụ Chang kháng cáo đề nghị hủy quyết định số 1478/QĐ-UBND và chia nhà, đất cho cụ Chang để cụ có nơi ở.

xác định tài sản chung của vợ chồng để chia sau ly hôn không đúng, gây thiệt hại cho các đương sự

2. Những vi phạm của Tòa cần rút kinh nghiệm

2.1 Vi phạm trong việc không xem xét đầy đủ yêu cần khởi kiện của đương sự

Ông Lợi (bị đơn) và cụ Chang (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) đều đề nghị hủy Quyết định giao đất số 1478/QĐ-UBND ngày 8/02/2010 do UBND thành phố VT, tỉnh PT giao đất cho hộ ông Lợi và bà Thuận để trả lại đất cho cụ Chang. Tòa án không làm rõ yêu cầu phản tố của ông Lợi, yêu cầu độc lập của cụ Chang, không xem xét yêu cầu này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cấp phúc thấm không giải quyết được.

2.2 Vi phạm trong việc xác định tải sản chung và chia tài sản ly hôn

Các đương sự đều xác định nhà đất có nguồn gốc của gia đình với tổng diện tích là 1.364 m2, sau khi bị thu hồi cấp tái định cư 300 m2 cho hộ gia đình trong đó có cả cụ Chang (thời điểm đó số hộ khẩu chủ hộ là cụ Chang). Tuy nhiên, bà Thuận và ông Lợi bán cho anh Nam 100 m2, còn lại 200 m2. Tòa án xác định diện tích còn lại 200 m2 là tài sản chung của ông Lợi, bà Thuận và cụ Chang là hợp lý. Tuy nhiên, án sơ thẩm chỉ chia hiện vật cho ông Lợi, bà Thuận mà không chia hiện vật cho cụ Chang mà chỉ chia cho cụ Chang 233.310.000 đồng, buộc ông Lợi, bà Thuận thanh toán tiền chênh lệch cho cụ là không bảo đảm quyền và lợi ích của cụ. Bởi lẽ cụ Chang đã già, không có nhà ở, vợ chồng ông Lợi bất đồng với cụ, cụ không có chỗ ở là không phù hợp với thực tế và pháp luật. Do vậy, cần phải chia nhà đất đế cụ Chang ổn định nơi ở trong thời gian cuối đời còn lại.

Do vi phạm về tố tụng và xác định tài sản chung không đúng, xâm phạm quyền và lợi ích họp pháp của cụ Chang và các đương sự. Tại Bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 23/2020/HNGĐ-PT ngày 9/11/2020 của Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND cấp cao tại Hà Nội tuyên hủy một phần Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 60/2019/HNGĐ-ST ngày 16/8/2019 của TAND tỉnh PT liên quan đến việc chia tài sản và Quyết định giao đất số 1478/QĐ-UBND ngày 8/02/2010 do UBND thành phố VT, tỉnh PT để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}