Rút kinh nghiệm vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án đình chỉ vụ án không đúng quy định

 


Thông qua công tác kiếm sát xét xử phúc thấm vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp họp đồng tín dụng” giữa Nguyên đơn - Ngân hàng TMCP SGTT; Bị đơn - Anh Chu Đình D, chị Phạm Thị Th; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ông Phạm Văn T, Viện kiếm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm có sai sót trong việc ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, cần rút kinh nghiệm.

Nội dung vụ án:

Vợ chồng anh Chu Đình D, chị Phạm Thị Th (trú tại thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh H) ký kết Họp đồng tín dụng số LD171500008 ngày 06/6/2017 với Ngân hảng TMCP SGTT để vay 450.000.000 đồng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng. Đe đảm bảo cho khoản vay trên của vợ chồng anh D, chị Th, các bên (Ngân hàng, vợ chồng anh D, chị Th và ông Phạm Văn T) đã ký

Quá trình thực hiện Họp đồng tín dụng, do việc kinh doanh không hiệu quả nên anh D, chị Th đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ngày 21/6/2019, Ngân hàng đã có Đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh H đề nghị giải quyết, buộc anh D, chị Th phải thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ số tiền còn nợ (bao gồm nợ gốc và lãi). Trường hợp anh D, chị Th không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan có thấm quyền thi hành án tiến hành kê biên bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nêu trên đế thu hồi nợ.

Sau khi đã thụ lý Vụ án do Ngân hàng khởi kiện nêu trên, ngày 18/6/2020, Tòa án nhân dân huyện Y đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại số 01/2020/QĐST-KDTM, lý do: Theo thông báo của Cục Quản lý Xuất nhập cảnh - Bộ Công an tại Công văn số 18923/QLXNC-P5 ngày 15/11/2019, chị Phạm Thị Th (Bị đơn trong Vụ án) có thông tin xuất cảnh ngày 24/9/2018 qua Cửa khấu Nội Bài, không rõ thông tin nước đến và chưa có thông tin nhập cảnh. Do Nguyên đơn (Ngân hàng) không cung cấp được địa chỉ hiện tại của Bị đơn (chị Th) nên Tòa án không tống đạt được cho Bị đơn và không có cơ sở đe tiếp tục thụ lý, giải quyết vụ án.

Vi phạm cần rút kinh nghiệm:

Theo Hợp đồng tín dụng số LD171500008 ngày 06/6/2017 được ký kết giữa vợ chồng anh D, chị Th với Ngân hàng thì nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ chung của vợ chồng anh D, chị Th, không phải là nghĩa vụ riêng, độc lập của từng người nên việc giải quyết Vụ án không bắt buộc phải có mặt đầy đủ cả hai vợ chồng. Anh D hiện vẫn cư trú tại địa chỉ như khi ký kết Hợp đồng tín dụng, còn chị Th sau khi ký kết Hợp đồng tín dụng mới xuất cảnh đi nước ngoài nhưng không thông báo cho Ngân hàng biết địa chỉ cư trú mới của mình. Quá trình giải quyết Vụ án, Tòa án cấp sơ thấm không yêu cầu và anh D (Bị đơn) cung cấp địa của chị Th (đồng Bị đơn với mình), mặc dù đây là nghĩa vụ của các đương sự (trong đó có Bị đơn) được quy định tại khoản 1 Điêu 72 và khoản 3 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Khoản 3 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự như sau: “3. Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi CU' trú, trụ sở của mình; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nếu có thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông báo kịp thời cho đương sự khác và Tòa án."

Khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của bị đơn: “7. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại. Điều 70 của Bộ luật này."

Trong trường họp Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu mà Bị đơn (anh D) không cung cấp được địa chỉ của chị Th hoặc địa chỉ không rõ ràng, không liên hệ được với chị Th thì Tòa án cấp sơ thẩm phải xác định Bị đơn (chị Th) thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ và tiến hành các thủ tục đế giải quyết Vụ án vắng mặt chị Th theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự và hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như sau:

“7. Trường họp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đây đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dân tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tỏa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung."

2. Trường họp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyêt như sau:

a) Trường họp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đây đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, họp đông băng 

vãn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi. có trụ sở

Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc noi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, đỉểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015 thĩ được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vĩ lý do không tống đạt được cho bị đơn., người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Như vậy, trong Vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm lấy lý do Nguyên đơn (Ngân hàng) không cung cầp được địa chỉ mới của chị Th (Bị đơn) để ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật.

Do có vi phạm nêu trên, tại Phiên họp phúc thẩm giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại số 01/2020/QĐST-KDTM ngày 18/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Y, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đề nghị và được Hội đồng phúc thấm chấp nhận huỷ Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, giao Hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}