THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
QUY ĐỊNH VỀ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT
TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình
sự ngày 27 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015;
Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thống nhất ban
hành Thông tư liên tịch quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự như
sau:
Điều 1. Phạm
vi điều chỉnh
Thông tư liên tịch này quy định
về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khởi tố, điều tra và truy tố.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Cơ
quan điều tra các cấp của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra các cấp trong Quân
đội nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (sau đây gọi
tắt là Cơ quan điều tra).
2.
Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các cấp (sau đây gọi tắt là Viện
kiểm sát).
3. Người
tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Điều 3. Nguyên tắc phối hợp
1. Bảo
đảm tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan theo quy định của pháp
luật.
2. Được
thực hiện thường xuyên, bảo đảm giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng
pháp luật.
3. Bảo
đảm bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật và quy định
của mỗi ngành.
Điều 4. Thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
1. Nếu
Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu
vực, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự
cấp quân khu tiến hành tố tụng đối với vụ án thuộc một trong những trường hợp
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi quy định tại Điều
49 và Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Cơ quan điều tra có văn bản đề
nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án đến Cơ quan điều tra cấp
trên trực tiếp để tiến hành điều tra.
Trường
hợp Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp trung ương tiến hành tố tụng đối với vụ án
thuộc một trong những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay
đổi, thì Bộ trưởng Bộ Công an (nếu Thủ trưởng Cơ quan điều tra của Công an nhân
dân), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (nếu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thuộc Bộ Quốc
phòng), Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao (nếu Thủ trưởng Cơ quan điều
tra thuộc Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao) quyết định giao
một Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tiến hành tố tụng đối với vụ án.
2.
Trường hợp Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra thuộc một trong những trường hợp
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, thì Thủ trưởng Cơ quan điều
tra quyết phân công Phó Thủ trưởng khác hoặc Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết
định trực tiếp tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Khi
Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc một trong những trường hợp phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, thì Kiểm sát viên trao đổi ngay để Điều tra
viên, Cán bộ điều tra từ chối tiến hành tố tụng; trường hợp Điều tra viên, Cán
bộ điều tra không nhất trí thì Kiểm sát viên có văn bản yêu cầu Thủ trưởng hoặc
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều
tra hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu
Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, thay đổi Điều tra
viên, Cán bộ điều tra.
Trong
thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, của Kiểm sát viên, thì Thủ trưởng hoặc Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải ra quyết định thay đổi Điều tra viên, Cán bộ
điều tra; nếu không nhất trí thì Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra trả lời Viện kiểm sát bằng văn bản, nêu rõ lý do.
4.
Trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm
sát quân sự khu vực; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu thuộc một trong những trường hợp phải từ
chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi quy định tại Điều 49 và
Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Viện kiểm sát phải báo cáo ngay với
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để ra quyết định phân công một Phó
Viện trưởng của Viện kiểm sát đó thay thế và gửi quyết định phân công cho Cơ
quan điều tra đang thụ lý vụ án. Trường hợp Viện kiểm sát đó không có Phó Viện
trưởng hoặc Phó Viện trưởng thuộc một trong những trường hợp phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát báo cáo Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để Cơ quan điều tra cấp trên
trực tiếp rút vụ án để điều tra.
5.
Trường hợp Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc một trong những trường hợp phải
từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết
định phân công Phó Viện trưởng khác hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định
trực tiếp tiến hành tố tụng đối với vụ án.
6.
Trường hợp nhận thấy Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thuộc một
trong những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì Cơ
quan điều tra có văn bản đề nghị nêu rõ lý do để Viện trưởng hoặc Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, quyết định.
Trong
thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của Cơ quan điều tra, nếu thấy
có căn cứ thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định thay
đổi Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; nếu thấy không có căn cứ thì
trả lời Cơ quan điều tra bằng văn bản, nêu rõ lý do.
7.
Trường hợp Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp
tiến hành tố tụng đối với vụ án thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải có văn bản
thông báo gửi cho Viện kiểm sát và Viện trưởng Viện kiểm sát phải có văn bản
thông báo gửi cho Cơ quan điều tra.
8. Các
văn bản về việc phân công, thay đổi Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên,
Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra quy định tại khoản 1, 2, 3, 7 Điều này
phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và đưa vào hồ sơ vụ án.
Các
văn bản về việc phân công, thay đổi Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên quy định tại khoản 4, 5, 6, 7 Điều này phải được gửi cho Cơ
quan điều tra và đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 5. Thay đổi, hủy bỏ lệnh, quyết định của Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
1. Đối
với lệnh, quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã gửi đến Viện kiểm sát
mà phát hiện có căn cứ cần thay đổi hoặc hủy bỏ thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra
có văn bản đề nghị rút lệnh, quyết định đó để ra quyết định thay đổi hoặc đề
nghị Viện kiểm sát hủy bỏ; trường hợp Viện kiểm sát phát hiện thì yêu cầu Thủ
trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc có văn bản đề nghị Viện
kiểm sát hủy bỏ; trường hợp Cơ quan điều tra không đồng ý thì Viện kiểm sát xem
xét, quyết định việc thay đổi hoặc hủy bỏ theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
2. Đối
với lệnh, quyết định của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã gửi đến Viện kiểm
sát mà phát hiện có căn cứ cần thay đổi hoặc hủy bỏ thì Thủ trưởng Cơ quan điều
tra có văn bản đề nghị rút lệnh, quyết định đó và ra quyết định thay đổi hoặc
hủy bỏ; trường hợp Viện kiểm sát phát hiện thì yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều
tra ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ; trường hợp Cơ quan điều tra không đồng
ý thì Viện kiểm sát xem xét, quyết định việc thay đổi hoặc hủy bỏ theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Đối
với lệnh, quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã được
Viện kiểm sát phê chuẩn mà phát hiện có căn cứ cần thay đổi hoặc hủy bỏ, thì
Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Viện trưởng Viện kiểm sát phối hợp xử lý như
sau:
a)
Trường hợp Cơ quan điều tra phát hiện thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra có văn
bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc kiến nghị Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp xem xét, quyết định việc thay đổi hoặc hủy bỏ; nếu Viện kiểm sát không
nhất trí thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do;
b)
Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện thì Viện trưởng Viện kiểm sát trao đổi với
Thủ trưởng Cơ quan điều tra trước khi xem xét, quyết định việc thay đổi hoặc
hủy bỏ;
c) Sau
khi hủy bỏ, nếu thấy cần ra lệnh, quyết định khác thì Viện kiểm sát có văn bản
yêu cầu Cơ quan điều tra ra lệnh, quyết định để Viện kiểm sát phê chuẩn. Trường
hợp Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát xem xét, quyết định theo
thẩm quyền.
Điều 6. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực
hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát
1.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra phải thực hiện yêu
cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 162,
Điều 167, Điều 236 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Đối
với quyết định quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 159, điểm b
khoản 1 Điều 161, khoản 4 và khoản 5 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự nếu
không nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị
với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết; nếu là Cơ quan điều
tra ở cấp trung ương thì kiến nghị với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương xem xét, giải quyết. Trường
hợp nhất trí với kiến nghị của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát cấp trên hủy
bỏ quyết định của Viện kiểm sát cấp dưới; nếu không nhất trí thì thông báo bằng
văn bản nêu rõ lý do cho Cơ quan điều tra đã kiến nghị và Viện kiểm sát cấp
dưới.
Điều 7. Khởi tố vụ án; thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khởi tố vụ án hình sự
1.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự
và các tài liệu có liên quan của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải xem xét,
xử lý như sau:
a) Nếu
thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp thì ra quyết định
phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố, điều tra vụ án và gửi cho Cơ quan điều tra;
b) Nếu
thấy chưa rõ căn cứ để khởi tố vụ án thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ
sung chứng cứ, tài liệu để làm rõ;
c) Nếu
thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ
quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định đó; trường hợp Cơ quan điều tra
không nhất trí hoặc là quyết định khởi tố vụ án hình sự của Thủ trưởng Cơ quan
điều tra thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình
sự theo quy định tại khoản 6 Điều 159 và khoản 1 Điều 161 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
2.
Trong thời hạn 02 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định không khởi tố vụ án
hình sự và các tài liệu có liên quan của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải
xem xét, xử lý như sau:
a) Nếu
thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì thông báo bằng văn
bản cho Cơ quan điều tra;
b) Nếu
thấy chưa đủ căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ,
tài liệu để làm rõ;
c) Nếu
thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì có văn bản yêu
cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra
quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 153,
khoản 6 Điều 159 Bộ luật Tố tụng hình sự và gửi cho Cơ quan điều tra để
tiến hành điều tra.
3.
Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì chậm nhất 03 ngày,
kể từ ngày nhận được yêu cầu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát quyết định việc
khởi tố theo quy định tại khoản 3 Điều 153 và điểm d khoản 1 Điều
161 Bộ luật Tố tụng hình sự và gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều
tra.
4. Sau
khi khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của Hội đồng xét xử hoặc nhận được quyết
định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử và các tài liệu có liên quan thì
Viện kiểm sát chuyển ngay quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có
liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.
5.
Trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, thì yêu cầu khởi tố
của bị hại hoặc người đại diện của bị hại phải thể hiện bằng văn bản có chữ ký
hoặc điểm chỉ của họ; trường hợp bị hại hoặc người đại diện của bị hại đến trực
tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập biên bản ghi rõ nội
dung yêu cầu khởi tố để họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản. Biên bản do Viện kiểm
sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra để xem xét việc khởi tố vụ
án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án.
Sau
khi khởi tố vụ án hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi
tố, nếu đang điều tra hoặc đã có bản kết luận điều tra nhưng hồ sơ chưa chuyển
cho Viện kiểm sát thì Cơ quan điều tra xem xét, quyết định việc đình chỉ điều
tra; nếu đã chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát xem xét, quyết
định việc đình chỉ vụ án.
Điều 8. Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình
sự
1.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát phải xem xét, xử lý như sau:
a) Nếu
thấy chưa rõ căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ,
tài liệu để làm rõ;
b) Nếu
thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự không có
căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định đó;
trường hợp Cơ quan điều tra không nhất trí thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy
bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Khi
có căn cứ thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát
có văn bản yêu cầu; chậm nhất 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Cơ
quan điều tra phải ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự; nếu đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát
ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
3.
Không thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu qua điều tra xác định được
hành vi của bị can phạm vào khoản khác của tội danh đã khởi tố.
Ví dụ:
Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn A về tội
trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; quá
trình điều tra xác định được hành vi trộm cắp của Nguyễn Văn A phạm vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự hoặc phạm vào khoản
3 Điều 173 Bộ luật Hình sự, thì không phải ra quyết định thay đổi quyết
định khởi tố vụ án hình sự.
Điều 9. Khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can
1.
Việc khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can được thực
hiện theo quy định tại các điều 179, 180 và 433 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Sau
khi khởi tố bị can, việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định tại Điều
183, Điều 442 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, quyết định thay
đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề
nghị Viện kiểm sát phê chuẩn, nêu rõ lý lịch bị can, căn cứ khởi tố, tổng số
tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can, việc thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can để Viện kiểm sát xét phê chuẩn.
3.
Trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thay đổi quyết định khởi tố bị can
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình
sự hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nếu quyết định khởi tố vụ án
hình sự chưa khởi tố về tội đó thì trước khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can phải ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ
1: Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với
Nguyễn Văn A về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra
xác định hành vi của A cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì trước khi
Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can đối với A từ
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sang tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
Cơ quan điều tra phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự
từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sang tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Ví dụ
2: Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với
Nguyễn Văn B về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra
xác định B còn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì trước khi Cơ
quan điều tra ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với B về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cơ quan điều tra phải ra quyết định bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
4.
Không thay đổi quyết định khởi tố bị can khi quá trình điều tra làm rõ hành vi
của bị can phạm vào khoản khác trong cùng tội danh, điều luật đã khởi tố đối
với bị can.
5.
Viện kiểm sát quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can khi đã yêu cầu bằng văn bản nhưng Cơ quan điều tra không
thực hiện. Trường hợp Viện kiểm sát khởi tố bị can thì việc thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố bị can do Viện kiểm sát quyết định.
6.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự, bổ sung quyết định khởi tố bị can trong trường hợp
bị can có nhiều hành vi phạm tội nhưng cùng tội danh và trường hợp bị can phạm
nhiều tội, được thực hiện như sau:
a) Nếu
một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng cùng một tội danh và bị phát
hiện cùng một thời điểm, thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một
quyết định khởi tố bị can đối với tất cả các lần phạm tội đó. Nếu trong quá
trình điều tra, truy tố phát hiện bị can còn thực hiện hành vi phạm tội có cùng
tội danh mà chưa bị khởi tố thì ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự về hành vi phạm tội đó;
b) Nếu
tại một thời điểm mà một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau và
được phát hiện cùng thời điểm, thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự,
một quyết định khởi tố bị can đối với tất cả các hành vi phạm tội, trong đó ghi
rõ từng tội danh và điều, khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng;
c) Nếu
một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau mà hành vi phạm tội trước
là để thực hiện hành vi phạm tội sau hoặc các hành vi phạm tội có liên quan đến
nhau, thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định khởi tố
bị can đối với các hành vi phạm tội, trong đó ghi rõ từng tội danh và điều,
khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng;
d) Nếu
một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội ở những thời điểm khác nhau và thuộc
nhiều tội danh khác nhau nhưng bị phát hiện cùng một thời điểm, thì chỉ ra một
quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định khởi tố bị can đối với các
hành vi phạm tội, trong đó ghi rõ từng tội danh và điều, khoản của Bộ luật Hình
sự được áp dụng;
đ) Khi
phát hiện bị can phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra cấp trên thì Cơ quan điều tra cấp dưới phải trao đổi,
thống nhất với Viện kiểm sát cùng cấp để chuyển toàn bộ vụ án cho Cơ quan điều
tra cấp trên tiến hành điều tra.
7. Sau
khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, nếu Viện
kiểm sát phát hiện thấy có cá nhân, pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi
phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố hoặc có căn cứ xác định hành vi phạm tội
của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác chưa
bị khởi tố, thì Viện kiểm sát xem xét, quyết định việc khởi tố bị can theo quy
định tại khoản 4 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, yêu cầu Cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố
bị can và tiến hành các hoạt động điều tra theo thủ tục chung. Nếu đã yêu cầu
mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị
can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và gửi cho Cơ
quan điều tra để tiến hành điều tra.
Điều 10. Giao nhận, xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
1. Cơ
quan điều tra chủ động trao đổi với Viện kiểm sát trước khi quyết định khởi tố
bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
2.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Trường hợp xét thấy chưa đủ căn cứ để
phê chuẩn, Kiểm sát viên kịp thời trao đổi với Điều tra viên những nội dung cần
bổ sung chứng cứ, tài liệu và báo cáo lãnh đạo mỗi ngành để xin ý kiến, thống
nhất các nội dung cần bổ sung. Yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm
sát phải được thể hiện bằng văn bản. Trường hợp không bổ sung được chứng cứ,
tài liệu thì Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do.
Sau
khi thực hiện việc bổ sung chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của Viện kiểm sát,
Cơ quan điều tra phải có văn bản tiếp tục đề nghị phê chuẩn hoặc rút quyết định
khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can kèm
theo các chứng cứ, tài liệu bổ sung theo yêu cầu của Viện kiểm sát để Viện kiểm
sát xem xét, quyết định theo thẩm quyền.
3.
Trường hợp xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm
giữ thì thời hạn xét phê chuẩn không quá thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ.
Chậm nhất trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ 24 giờ, Cơ quan
điều tra phải chuyển hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài
liệu làm căn cứ xét phê chuẩn, thì thời gian bổ sung chứng cứ, tài liệu không
quá thời hạn gia hạn tạm giữ; nếu không bổ sung được chứng cứ, tài liệu trong
thời hạn gia hạn tạm giữ thì Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do và
đề nghị Viện kiểm sát xem xét, quyết định.
4. Để
bổ sung chứng cứ, tài liệu xem xét, quyết định việc phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu Kiểm
sát viên và Điều tra viên cùng hỏi cung bị can, lấy lời khai người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân thương mại, người làm chứng, bị hại, đương sự, thì
Điều tra viên có trách nhiệm sao chụp và chuyển ngay biên bản hỏi cung, biên
bản lấy lời khai đó cho Kiểm sát viên; nếu Kiểm sát viên trực tiếp tiến hành
hỏi cung, lấy lời khai thì Kiểm sát viên phải chuyển ngay biên bản hỏi cung, biên
bản lấy lời khai đó cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
5. Hồ
sơ đề nghị Viện kiểm sát xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can gồm các chứng cứ, tài liệu sau:
a) Văn
bản đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can;
b)
Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự;
c)
Quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố
bị can;
d)
Biên bản hỏi cung bị can (nếu có), biên bản lấy lời khai người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân thương mại (nếu có); biên bản lấy lời khai của người bị
tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, bị hại và những người tham gia
tố tụng khác (nếu có);
đ) Các
chứng cứ, tài liệu khác làm căn cứ khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can.
6.
Việc thống kê, đóng dấu bút lục và bàn giao tài liệu trong hồ sơ đề nghị phê
chuẩn quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 35
Thông tư liên tịch này.
7. Sau
khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định
khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải thực hiện đúng quy định
tại khoản 5 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự và phải lập
biên bản về việc giao, nhận quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc
quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát.
Điều 11. Đề ra yêu cầu điều tra và thực hiện yêu cầu điều
tra của Kiểm sát viên
1.
Kiểm sát viên phải kịp thời trao đổi với Điều tra viên, Cán bộ điều tra được
phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi nhận được
quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong quá trình điều tra, bảo đảm để Điều
tra viên, Cán bộ điều tra kịp thời thu thập đầy đủ các chứng cứ, tài liệu của
vụ án.
Kiểm
sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói trong quá trình trực tiếp
kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét,
hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự, đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói. Đối với các hoạt động điều tra
khác, Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản, nêu rõ ràng, cụ
thể những vấn đề cần điều tra, chứng cứ, tài liệu cần thu thập. Văn bản yêu cầu
điều tra phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
2.
Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công điều tra vụ án phải thực hiện yêu
cầu điều tra của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết, Điều tra viên, Cán bộ điều
tra có thể trao đổi với Kiểm sát viên để làm rõ những nội dung của yêu cầu điều
tra. Trường hợp có nội dung yêu cầu điều tra mà Điều tra viên, Cán bộ điều tra
không nhất trí, thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra; Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát để thống nhất về nội dung yêu cầu điều tra. Trường hợp Cơ quan
điều tra không thực hiện yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát hoặc đã tiến hành
các hoạt động điều tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được
yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát thì Cơ quan điều tra phải nêu rõ lý do trong
bản kết luận điều tra.
Điều 12. Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra
1. Trong
giai đoạn điều tra, khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự
thì Kiểm sát viên trực tiếp tiến hành hỏi cung
bị can, lấy lời khai người bị tạm giữ, người bị bắt, bị hại, đương sự, người
làm chứng, người chứng kiến, đối chất, thực nghiệm điều tra và các hoạt động
điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thông
báo trước cho Điều tra viên trước khi tiến hành. Điều tra viên có trách nhiệm
phối hợp với Kiểm sát viên để thực hiện các hoạt động điều tra khi được yêu
cầu; trường hợp Điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 02 giờ trước khi Kiểm sát
viên tiến hành một số hoạt động điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm
sát viên biết.
2. Trường
hợp Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
tại khoản 3 Điều 236, khoản 1
Điều 246 Bộ luật Tố tụng hình sự mà thấy
cần phối hợp với Cơ quan điều tra thì chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành một
số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát thông báo cho Cơ quan điều tra thời gian,
địa điểm tiến hành một số hoạt động điều tra để phân công Điều tra viên cùng
phối hợp thực hiện; trường hợp Điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 02 giờ
trước khi Kiểm sát viên tiến hành một số hoạt động điều tra, Điều tra viên phải
thông báo cho Kiểm sát viên biết.
3.
Biên bản tiến hành một số hoạt động điều tra của Kiểm sát viên phải được đưa
vào hồ sơ vụ án.
Điều 13. Thông báo; chuyển biên bản về các hoạt động điều
tra
1.
Chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói
và thực nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên thời
gian, địa điểm tiến hành. Trường hợp Kiểm sát viên không thể tham gia được, thì
chậm nhất 02 giờ trước khi Điều tra viên tiến hành, Kiểm sát viên phải thông
báo cho Điều tra viên biết lý do để ghi vào biên bản.
2.
Ngay sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh khám xét, Điều tra viên trao đổi,
thống nhất với Kiểm sát viên về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để
Kiểm sát viên tham gia. Trường hợp bất khả kháng, Kiểm sát viên vắng mặt thì
chậm nhất 02 giờ trước khi Điều tra viên tiến hành, Kiểm sát viên phải thông
báo cho Điều tra viên biết lý do để ghi vào biên bản.
3. Trường
hợp Kiểm sát viên không tham gia kiểm sát các hoạt động điều tra nêu tại khoản
1 và khoản 2 Điều này, thì sau khi kết thúc hoạt động điều tra, Điều tra viên
phải chuyển biên bản, tài liệu về các hoạt động điều tra này cho Kiểm sát viên
theo đúng quy định tại khoản 5
Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 14. Tính thời hạn tố tụng trong trường hợp nhập vụ án
hình sự, bị can phạm vào tội nặng hơn hoặc nhẹ hơn, khởi tố, điều tra bổ sung
về một tội phạm khác
1.
Trường hợp nhập vụ án hình sự để điều tra theo quy định tại khoản
1 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì thời hạn điều tra của vụ án và thời
hạn tạm giam bị can được tính theo tội nặng nhất đã khởi tố đối với bị can.
Thời hạn điều tra được tính từ ngày khởi tố vụ án đầu tiên.
2.
Trường hợp đang điều tra vụ án mà xác định hành vi của bị can phạm vào khoản có
khung hình phạt nặng hơn trong cùng một điều luật và trường hợp quyết định thay
đổi quyết định khởi tố bị can sang tội nặng hơn ở điều luật khác, thì thời hạn
điều tra, thời hạn tạm giam được tính theo tội nặng hơn nhưng phải trừ thời hạn
đã điều tra, tạm giam trước đó.
Ví dụ
1: Ngày 01/01/2018, Cơ quan điều tra khởi tố bị can, áp dụng biện pháp tạm giam
đối với Nguyễn Văn A về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều
173 Bộ luật Hình sự (loại tội phạm nghiêm trọng). Đến ngày 30/01/2018, căn
cứ kết quả điều tra xác định hành vi trộm cắp của bị can phạm vào khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự (loại tội phạm rất nghiêm
trọng); do đó, từ ngày 30/01/2018, thời hạn điều tra, tạm giam đối với bị can
Nguyễn Văn A được tính theo tội phạm rất nghiêm trọng và phải trừ thời gian đã
điều tra, đã tạm giam bị can Nguyễn Văn A trước đó (01 tháng).
Ví dụ
2: Ngày 01/01/2018, Cơ quan điều tra khởi tố bị can, áp dụng biện pháp tạm giam
đối với Nguyễn Văn B về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Ngày
30/01/2018, Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can
đối với Nguyễn Văn B sang tội giết người theo khoản 1 Điều 123
Bộ luật Hình sự; do đó, thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam bị can được
tính theo tội giết người kể từ ngày 30/01/2018 và phải trừ thời gian đã điều
tra, đã tạm giam bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trước đó (01 tháng).
3.
Trường hợp đang điều tra vụ án mà quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can về một tội phạm khác, thì thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam
được tính theo tội nặng nhất. Tổng thời hạn điều tra không vượt quá thời hạn
quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự; tổng thời
hạn tạm giam theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự
nhưng không vượt quá thời hạn điều tra.
4.
Trường hợp thay đổi quyết định khởi tố bị can từ tội nặng hơn sang tội nhẹ hơn
hoặc xác định được hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nhẹ hơn
trong cùng tội danh, thì thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam được tính theo
tội nhẹ hơn. Ngay sau khi thay đổi quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra
phải trao đổi, thống nhất với Viện kiểm sát để xem xét, quyết định về việc áp
dụng hoặc hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn đối với bị can phù hợp với tội
nhẹ hơn.
Điều 15. Áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
1. Khi
đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo chứng cứ, tài liệu
chứng minh căn cứ bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, cụ thể là:
a) Nếu
giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong hồ sơ phải có chứng cứ,
tài liệu chứng minh rõ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Nếu
giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong hồ sơ phải có biên bản
ghi lời khai của người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt
tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm và các tài liệu hoặc căn cứ xác định người đó bỏ trốn nếu không
bị giữ;
c) Nếu
giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong hồ sơ phải có chứng cứ,
tài liệu xác định có dấu vết, tài liệu, đồ vật của tội phạm ở người hoặc tại
chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội
phạm đó; tài liệu, căn cứ xác định người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
2.
Trường hợp Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp để xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thì Kiểm sát viên thông báo cho Điều tra
viên, Cán bộ điều tra để phối hợp thực hiện. Điều tra viên, Cán bộ điều tra có
trách nhiệm phối hợp với Kiểm sát viên trong việc gặp, hỏi người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp do Kiểm sát viên lập phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
3.
Việc ra quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được thực
hiện trong thời hạn 12 giờ kể từ khi Cơ quan điều tra giữ người hoặc nhận người
bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp của Viện kiểm sát). Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp.
4. Sau
khi nhận được quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, Điều tra viên phải lập biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
tại cơ sở giam giữ. Người chứng kiến việc lập biên bản là cán bộ của cơ sở giam
giữ.
5.
Trường hợp Cơ quan điều tra đang thụ lý hồ sơ vụ án đề nghị Cơ quan điều tra
khác hoặc những người quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều
110 Bộ luật Tố tụng hình sự phối hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
thì ngay sau khi thực hiện việc giữ người, Cơ quan điều tra và những người được
đề nghị phối hợp phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra đã đề nghị đến nhận
người bị giữ và các tài liệu có liên quan; đồng thời phối hợp trong việc áp
giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về đến trụ sở Cơ quan điều tra. Tài
liệu đề nghị phối hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải được đưa vào hồ
sơ vụ án.
Cơ quan điều tra đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp có thể fax hoặc gửi bản ảnh lệnh đó qua phương tiện điện tử cho cơ quan, người được đề nghị phối hợp thực hiện việc giữ người nhưng sau đó phải gửi bản chính để đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 16. Phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người
đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can
1.
Trường hợp khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì chậm nhất 24 giờ
trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra phải
chuyển hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn,
nếu có chứng cứ, tài liệu bổ sung thì Cơ quan điều tra phải chuyển ngay cho
Viện kiểm sát. Việc xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can được tiến hành cùng
với việc xét phê chuẩn lệnh tạm giam bị can.
Trường
hợp chưa hết thời hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra đề nghị phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can, lệnh tạm giam, nếu chưa đủ căn cứ khởi tố, tạm giam bị can
nhưng có căn cứ gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra
quyết định gia hạn tạm giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát phê chuẩn. Trong thời
hạn gia hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra phải khẩn trương thu thập, củng cố chứng
cứ, tài liệu và chuyển ngay cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can, lệnh tạm giam.
2.
Trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm
giam thì ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, quyết định không phê
chuẩn lệnh tạm giam và yêu cầu Cơ quan điều tra trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ; trường hợp Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ thì Viện
kiểm sát ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ.
3.
Trường hợp xét thấy việc khởi tố bị can có căn cứ, nhưng không cần thiết phải
tạm giam bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can, quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam; nếu thấy cần thiết thì yêu cầu
Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can.
4. Hồ
sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam quy định tại
khoản 1 Điều này gồm:
a) Văn
bản đề nghị xét phê chuẩn nêu rõ lý do, kèm theo hồ sơ liên quan đến việc tạm
giam; lệnh tạm giam bị can;
b) Hồ
sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can theo quy định tại khoản 5
Điều 10 Thông tư liên tịch này.
Điều 17. Tính thời hạn tạm giam trong trường hợp bị can đã
bị tạm giữ và cách ghi thời hạn trong lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm
giam
1.
Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam để điều tra. Nếu việc tạm giam
liên tục với việc tạm giữ thì thời hạn tạm giam được tính tiếp từ ngày hết thời
hạn tạm giữ. Nếu việc tạm giam không liên tục với việc tạm giữ thì thời hạn tạm
giam được tính kể từ ngày bắt bị can để tạm giam cho đến ngày kết thúc được ghi
trong lệnh (đã trừ đi số ngày bị tạm giữ). Thời điểm cuối cùng của thời hạn tạm
giam là 24 giờ 00 phút của ngày cuối cùng được ghi trong lệnh. Khi tính thời
hạn tạm giữ, tạm giam phải căn cứ vào thời hạn thực tế được ghi trong quyết
định tạm giữ, lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam và tính liên tục cả
ngày nghỉ (thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, ngày tết), 01 tháng tạm giam được tính
bằng 30 ngày.
2.
Cách ghi thời hạn trong lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam trong trường
hợp trước đó bị can đã bị tạm giữ được thực hiện như sau: thời hạn tạm giam
được tính theo ngày, bắt đầu kể từ ngày cuối cùng của thời hạn tạm giữ hoặc
ngày bắt bị can để tạm giam và kết thúc vào ngày cuối cùng của thời hạn tạm
giam (sau khi đã trừ đi số ngày tạm giữ).
Ví dụ
1: Nguyễn Văn A bị tạm giữ 03 ngày, từ 10 giờ 00 phút ngày 01/3/2018 đến 10 giờ
00 phút ngày 04/3/2018, sau đó A bị khởi tố bị can và bị ra lệnh tạm giam 02
tháng, thì thời hạn tạm giam thực tế đối với bị can là 01 tháng 27 ngày (đã trừ
03 ngày tạm giữ). Do đó, thời hạn trong lệnh tạm giam, quyết định phê chuẩn
lệnh tạm giam ghi là: tạm giam trong thời hạn 01 tháng 27 ngày, kể từ ngày
04/3/2018 đến hết ngày 29/4/2018 đối với bị can Nguyễn Văn A.
Ví dụ
2: Trần Thị B bị tạm giữ 06 ngày, từ 14 giờ 00 phút ngày 05/3/2018 đến 14 giờ
00 phút ngày 11/3/2018 thì được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến
ngày 11/4/2018 bị can B bị bắt để tạm giam thời hạn là 02 tháng, thì thời hạn
tạm giam đối với bị can B là 01 tháng 24 ngày (đã trừ 06 ngày tạm giữ). Do đó,
thời hạn trong lệnh bắt bị can để tạm giam, quyết định phê chuẩn lệnh bắt bị
can để tạm giam ghi là: tạm giam trong thời hạn 01 tháng 24 ngày, kể từ ngày
11/4/2018 đến hết ngày 03/6/2018 đối với bị can Trần Thị B.
Điều 18. Sử dụng lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra và
quyết định gia hạn thời hạn tạm giam của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
1. Khi
kết thúc điều tra đề nghị truy tố và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát, Cơ
quan điều tra phải thông báo cho cơ sở giam giữ nơi bị can đang bị tạm giam.
2.
Ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm tra thời hạn tạm giam bị
can để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét, quyết định
như sau:
a) Nếu
thời hạn tạm giam để điều tra theo lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra hoặc theo
quyết định gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát vẫn còn mà bằng hoặc dài hơn thời
hạn quyết định việc truy tố quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ
luật Tố tụng hình sự đối với tội phạm đang xem xét quyết định việc truy tố
và xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can trong giai đoạn truy tố thì
Viện kiểm sát tiếp tục sử dụng lệnh tạm giam hoặc quyết định gia hạn tạm giam
đó mà không phải ra lệnh tạm giam mới;
b) Nếu
thời hạn tạm giam để điều tra theo lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra hoặc theo
quyết định gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát vẫn còn nhưng không đủ để hoàn
thành việc truy tố thì trước khi hết thời hạn tạm giam ít nhất 05 ngày, Viện kiểm
sát ra lệnh tạm giam mới; thời hạn tạm giam còn lại và thời hạn tạm giam mới
không vượt quá thời hạn quyết định việc truy tố quy định tại khoản
1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với tội phạm đang xem xét quyết định
việc truy tố. Sau khi ra lệnh tạm giam mới, Viện kiểm sát giao ngay lệnh tạm
giam cho bị can, cơ sở giam giữ nơi bị can đang bị tạm giam;
c)
Trường hợp vụ án có bị can phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và bị can
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng, thì chậm nhất 05 ngày
trước khi hết thời hạn tạm giam đối với bị can phạm tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, Kiểm sát viên phải báo cáo để Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát quyết định truy tố đối với các bị can trong vụ án hoặc áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác đối với bị can phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng.
1.
Trường hợp Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung mà còn thời hạn tạm giam
theo lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra hoặc quyết định gia hạn tạm giam của
Viện kiểm sát, thì Cơ quan điều tra tiếp tục sử dụng lệnh tạm giam hoặc quyết định
gia hạn tạm giam đó mà không phải ra lệnh tạm giam mới; nếu thời hạn điều tra
bổ sung chưa hết mà thời hạn tạm giam theo lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra
hoặc theo quyết định gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát không đủ để hoàn thành
việc điều tra bổ sung thì trước khi hết thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam ít
nhất 05 ngày, Cơ quan điều tra ra lệnh tạm giam và đề nghị Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn; thời hạn tạm giam trong trường hợp này được tính từ ngày kế tiếp
của ngày tạm giam cuối cùng ghi trong lệnh tạm giam hoặc quyết định gia hạn tạm
giam trước đó và không được quá thời hạn điều tra bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Trường hợp chuyển vụ án để điều tra, truy tố theo thẩm quyền thì việc tạm giam
bị can được thực hiện như sau:
a) Nếu
còn thời hạn tạm giam để điều tra theo lệnh tạm giam hoặc quyết định gia hạn
tạm giam trước đó của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án và xét
thấy cần tiếp tục tạm giam bị can thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nơi nhận thụ
lý vụ án tiếp tục sử dụng lệnh tạm giam hoặc quyết định gia hạn tạm giam trước
đó mà không phải ra lệnh tạm giam mới; nếu thời hạn tạm giam còn lại không đủ
để kết thúc điều tra và xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị can thì trước khi hết
thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam ít nhất 05 ngày, Cơ quan điều tra nơi nhận
thụ lý vụ án có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp gia hạn tạm giam theo
quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự;
b) Nếu
còn thời hạn tạm giam để truy tố theo lệnh tạm giam hoặc quyết định gia hạn tạm
giam của Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án và xét thấy cần tiếp tục tạm giam thì
Viện kiểm sát nơi nhận thụ lý vụ án tiếp tục sử dụng lệnh tạm giam hoặc quyết
định gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án mà không phải ra lệnh tạm
giam mới; nếu thời hạn tạm giam còn lại không đủ để hoàn thành việc truy tố và
xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị can, thì Viện kiểm sát nơi nhận thụ lý vụ án
phải ra lệnh tạm giam đối với bị can.
Điều 20. Gia hạn thời hạn áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra
1.
Trong giai đoạn điều tra, trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn 10
ngày, Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ căn cứ, lý do và đề nghị Viện
kiểm sát gia hạn thời hạn áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn.
2. Khi
đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ điều tra đối với bị can, Cơ quan điều tra
phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ mọi biện pháp ngăn chặn đã được
phê chuẩn, nêu rõ lý do, kèm theo các chứng cứ, tài liệu chứng minh căn cứ đình
chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ điều tra đối với bị can.
3. Hồ
sơ đề nghị gia hạn thời hạn áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
gồm:
a) Văn
bản đề nghị của Cơ quan điều tra nêu rõ căn cứ, lý do đề nghị gia hạn thời hạn
áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn;
b)
Chứng cứ, tài liệu là căn cứ để Cơ quan điều tra đề nghị gia hạn thời hạn áp
dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn.
Điều 21. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh
1.
Trường hợp Cơ quan điều tra quyết định cho bị can được bảo lĩnh thì ngay sau
khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh, Cơ quan điều tra có văn bản nêu
rõ lý do, kèm theo chứng cứ, tài liệu gửi Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị xét
phê chuẩn.
2. Hồ
sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định về việc bảo lĩnh gồm:
a) Văn
bản đề nghị xét phê chuẩn và quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh;
b)
Giấy cam đoan có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh đối
với trường hợp cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh cho bị can;
c)
Giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người nhận bảo lĩnh cư
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người nhận bảo lĩnh làm việc, học tập đối với
trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can (phải có giấy cam đoan của ít nhất
02 người bảo lĩnh);
d)
Giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ của bị can được bảo lĩnh theo các nội dung
quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự;
đ)
Chứng cứ, tài liệu về hành vi phạm tội, nhân thân của bị can để xác định tính
chất, mức độ hành vi của bị can không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm
giam.
3.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
hoặc có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê
chuẩn quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
4. Khi
có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản
3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ
lý do, kèm theo các tài liệu xác định vi phạm của bị can và đề nghị Viện kiểm
sát hủy bỏ biện pháp bảo lĩnh. Cơ quan điều tra phải ra lệnh bắt bị can để tạm
giam và có văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn; thời hạn tạm giam trong
trường hợp này không được quá thời hạn điều tra vụ án.
5.
Trường hợp Viện kiểm sát có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan
thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục hủy bỏ biện pháp
bảo lĩnh và áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định tại khoản 4 Điều này.
6.
Trường hợp đã kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát
thấy cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can thì Viện kiểm
sát ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Thời hạn bảo lĩnh không quá thời
hạn quyết định việc truy tố, tính từ ngày kế tiếp của ngày cuối cùng ghi trong
quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh của Cơ quan điều tra.
Điều 22. Áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm
1.
Trường hợp Cơ quan điều tra quyết định cho bị can hoặc người thân thích của bị
can được đặt tiền để bảo đảm, thì ngay sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp
đặt tiền để bảo đảm, Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo chứng
cứ, tài liệu gửi Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị xét phê chuẩn.
2. Hồ
sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm gồm:
a) Văn
bản đề nghị xét phê chuẩn và quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm;
b)
Chứng cứ, tài liệu thể hiện tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội,
nhân thân và tình trạng tài sản của bị can;
c) Tài
liệu xác định bị can hoặc người thân thích của bị can đã đặt tiền để bảo đảm;
d)
Giấy cam đoan của bị can về việc cam đoan thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự;
đ)
Giấy cam đoan của người thân thích của bị can theo quy định tại khoản
5 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với trường hợp người thân thích của
bị can đặt tiền để bảo đảm.
3.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
hoặc có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê
chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
4. Khi
có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản
2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ
lý do, kèm theo các tài liệu xác định vi phạm của bị can và đề nghị Viện kiểm
sát hủy bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Cơ quan điều tra phải ra lệnh bắt bị
can để tạm giam và có văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn; thời hạn tạm
giam trong trường hợp này không được quá thời hạn điều tra vụ án.
5.
Trường hợp Viện kiểm sát có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan
thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục hủy bỏ biện pháp
đặt tiền để bảo đảm và áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định tại khoản 4
Điều này.
6.
Trường hợp đã kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát
thấy cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can
thì Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Thời hạn
đặt tiền để bảo đảm không quá thời hạn quyết định việc truy tố, tính từ ngày kế
tiếp của ngày cuối cùng ghi trong quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo
đảm của Cơ quan điều tra.
Điều 23. Áp dụng một số biện pháp ngăn chặn khi gia hạn
thời hạn điều tra, gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố
1. Khi
gia hạn thời hạn điều tra, gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố mà thời hạn
cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của
bị can đã hết thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra lệnh, quyết định mới. Cơ
quan điều tra đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn đối với quyết định áp dụng biện
pháp bảo lĩnh và quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm trước khi thi
hành. Thời hạn áp dụng các lệnh, quyết định mới của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát đối với các bị can không quá thời hạn gia hạn điều tra, gia hạn thời hạn
quyết định việc truy tố.
2. Nếu
thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm
bảo của Cơ quan điều tra vẫn còn mà bằng hoặc dài hơn thời hạn quyết định việc
truy tố theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình
sự, mà xét thấy cần tiếp tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó, thì Viện
kiểm sát tiếp tục sử dụng lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra.
Nếu
thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm
bảo của Cơ quan điều tra vẫn còn nhưng không đủ thời hạn để hoàn thành việc
truy tố, mà xét thấy cần tiếp tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó, thì chậm
nhất 05 ngày trước khi hết thời hạn được ghi trong lệnh, quyết định, Viện kiểm
sát phải ra lệnh, quyết định mới.
Điều 24. Áp dụng biện pháp tạm đình chỉ có thời hạn hoạt
động của pháp nhân thương mại liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân
thương mại; buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án
1.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ có thời hạn hoạt
động của pháp nhân thương mại hoặc quyết định buộc pháp nhân thương mại phải
nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra phải có hồ sơ gồm
các chứng cứ, tài liệu sau đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn:
a) Văn
bản đề nghị xét phê chuẩn nêu rõ lý do, căn cứ;
b)
Quyết định tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân thương mại hoặc
quyết định buộc pháp nhân thương mại phải nộp một khoản tiền để bảo đảm thi
hành án;
c)
Chứng cứ, tài liệu chứng minh căn cứ áp dụng biện pháp tạm đình chỉ có thời hạn
hoạt động của pháp nhân thương mại hoặc quyết định buộc pháp nhân thương mại
phải nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.
2.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
hoặc có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê
chuẩn quyết định tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân thương mại
hoặc quyết định buộc pháp nhân thương mại phải nộp một khoản tiền để bảo đảm
thi hành án.
Điều 25. Quyết định, phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt
1.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt theo quy định tại Điều 223 và Điều 224 Bộ luật Tố
tụng hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều
tra quân sự cấp quân khu trở lên phải có hồ sơ đề nghị Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
2.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Thủ trưởng Cơ
quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở
lên, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn hoặc có văn bản yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ
trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên bổ sung chứng cứ, tài liệu
để xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
3. Hồ
sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
gồm:
a) Văn
bản đề nghị xét phê chuẩn nêu rõ lý do, căn cứ áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt và các thông tin, tài liệu cần thiết thu thập khi áp dụng biện
pháp này;
b)
Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt của Thủ trưởng Cơ quan
điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên
theo quy định tại khoản 2 Điều 225 Bộ luật Tố tụng hình sự;
c) Các
tài liệu khác là căn cứ để Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ
quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên đề nghị xét phê chuẩn.
4.
Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu
vực thụ lý, điều tra mà thấy cần thiết và có căn cứ áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt, thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan
điều tra quân sự khu vực trao đổi với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực về căn cứ và biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt có thể áp dụng. Đồng thời, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp
huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu vực có văn bản kèm theo hồ sơ đề
nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp
quân khu ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Quyết định
áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt của Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp
tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu; thời hạn, trình tự, thủ
tục đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn thực hiện theo quy định tại
khoản 1 Điều này.
Điều 26. Thực hiện biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
1. Quá
trình thực hiện biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Thủ trưởng Cơ quan điều
tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên phải
thường xuyên kiểm tra việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, thông
báo thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
cho Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và thống nhất việc sử dụng, xử lý đối
với thông tin, tài liệu thu thập được theo quy định tại Điều
227 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Trường hợp xét thấy cần gia hạn thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt, thì trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt 10
ngày, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự
cấp quân khu trở lên phải có văn bản nêu rõ lý do kèm theo chứng cứ, tài liệu
là căn cứ đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, quyết định việc
gia hạn. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị kèm theo
chứng cứ, tài liệu của Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan
điều tra quân sự cấp quân khu trở lên, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải
ra quyết định gia hạn hoặc không gia hạn hoặc có văn bản yêu cầu Thủ trưởng Cơ
quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở
lên bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét gia hạn thời hạn áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt.
Điều 27. Hủy bỏ, kết thúc việc áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt
1. Khi
xét thấy không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt,
Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp
quân khu trở lên phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn
ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
2. Khi
thấy có căn cứ để hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn ra quyết định hủy bỏ quyết
định đó và gửi cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định trong thời hạn
24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy bỏ để chuyển ngay quyết định đó đến cơ quan
tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt để kết thúc ngay việc áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Điều 28. Việc quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
1. Trường
hợp xét thấy vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra không ra quyết định áp dụng thủ tục
rút gọn, thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được văn bản yêu
cầu của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn hoặc có văn bản nêu rõ lý do không áp dụng thủ tục rút gọn. Trường hợp nhận
được văn bản nêu rõ lý do không áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra mà
Viện kiểm sát thấy phải áp dụng thủ tục rút gọn thì Viện kiểm sát ra quyết định
và chuyển cho Cơ quan điều tra để thực hiện.
2.
Trường hợp xét thấy quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra
không có căn cứ và trái pháp luật, thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận
được quyết định, Viện kiểm sát phải ra quyết định hủy bỏ quyết định đó.
3.
Trong giai đoạn điều tra, nếu thấy không còn một trong các điều kiện áp dụng
thủ tục rút gọn theo quy định tại các điểm b, c và d khoản 1
Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc vụ án, bị can được tạm đình chỉ điều
tra, thì việc hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn được thực hiện như sau:
a)
Trường hợp Cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, thì Cơ quan
điều tra phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; nếu Cơ
quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;
b)
Trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thì Viện kiểm
sát ra quyết định hủy bỏ.
4.
Trong giai đoạn truy tố, nếu thấy không còn một trong các điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn theo quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều
456 Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc vụ án, bị can được tạm đình chỉ, thì Viện
kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
Điều 29. Chuyển vụ án để điều tra, truy tố theo thẩm quyền;
nhập, tách vụ án hình sự
1.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định vụ án không thuộc thẩm
quyền điều tra, Cơ quan điều tra đang điều tra vụ án trao đổi, thống nhất với
Viện kiểm sát cùng cấp để có văn bản gửi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có
thẩm quyền, kèm theo các tài liệu xác định thẩm quyền điều tra để trao đổi về
việc chuyển hồ sơ vụ án để điều tra theo thẩm quyền. Trong thời hạn 05 ngày, kể
từ ngày nhận được văn bản trao đổi, Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra
phải trao đổi với Viện kiểm sát cùng cấp để có văn bản trả lời. Tùy từng trường
hợp, việc chuyển vụ án được xử lý như sau:
a)
Trường hợp Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra nhất trí tiếp nhận hồ sơ vụ
án để điều tra thì Cơ quan điều tra đang điều tra có văn bản đề nghị chuyển vụ
án gửi Viện kiểm sát cùng cấp để quyết định việc chuyển vụ án theo thẩm quyền;
b)
Trường hợp Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra không nhất trí tiếp nhận hồ
sơ vụ án để điều tra thì phải có văn bản nêu rõ lý do; nếu lý do không có căn
cứ thì Cơ quan điều tra đang điều tra vụ án có văn bản đề nghị chuyển vụ án gửi
Viện kiểm sát cùng cấp để quyết định việc chuyển vụ án theo thẩm quyền, Cơ quan
điều tra có thẩm quyền điều tra phải tiếp nhận hồ sơ vụ án khi có quyết định
chuyển vụ án của Viện kiểm sát; nếu lý do không nhất trí do tranh chấp về thẩm
quyền điều tra, thì Cơ quan điều tra đang điều tra vụ án phối hợp cùng Viện
kiểm sát cùng cấp báo cáo, đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét
giải quyết về thẩm quyền điều tra theo quy định tại khoản 3
Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Trường hợp Viện kiểm sát chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền thì Cơ quan
điều tra kết thúc điều tra vụ án có trách nhiệm phối hợp cùng Viện kiểm sát đã
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án thực hiện yêu cầu, quyết định
chuyển vật chứng (nếu có) và quyết định khác của Viện kiểm sát có thẩm quyền
truy tố.
3.
Trường hợp có căn cứ để nhập, tách vụ án hình sự theo quy định tại Điều 170, Điều 242 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát trao đổi, thống nhất trước khi ra quyết định. Trường hợp có
đủ căn cứ, điều kiện nhập, tách vụ án hình sự nhưng Cơ quan điều tra không thực
hiện thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định nhập,
tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra.
Điều 30. Phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều
tra viên, Kiểm sát viên trong trường hợp ủy thác điều tra
Khi
nhận được ủy thác điều tra mà xét thấy hoạt động điều tra được ủy thác phức
tạp, kéo dài thì Cơ quan điều tra được ủy thác phải phân công Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên tiến hành điều tra những việc được ủy thác; Viện
kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra được ủy thác phải phân công Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiến hành hoạt động điều tra của Cơ
quan điều tra được ủy thác.
Điều 31. Chuẩn bị kết thúc điều tra vụ án
1.
Chậm nhất 10 ngày đối với vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 15 ngày đối
với vụ án rất nghiêm trọng, 20 ngày đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng trước
khi kết thúc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra vụ án, Điều tra viên và Kiểm
sát viên phải phối hợp để đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố
tụng của vụ án, nếu thấy có đủ căn cứ kết thúc điều tra thì thống nhất để Điều
tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra kết thúc điều tra
vụ án; nếu thấy cần phải tiếp tục điều tra thì báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát để gia hạn
thời hạn điều tra, tạm giam bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối
với vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc Điều tra viên và Kiểm sát viên
không thống nhất quan điểm đánh giá chứng cứ, tội danh, thì Điều tra viên trao
đổi với Kiểm sát viên báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện
kiểm sát để Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát tổ chức họp
đánh giá kết quả điều tra vụ án, chỉ đạo giải quyết những vấn đề chưa thống
nhất, khó khăn, vướng mắc, bảo đảm việc kết thúc điều tra, giải quyết vụ án
đúng quy định của pháp luật.
2.
Điều tra viên, Kiểm sát viên phải lập biên bản thống nhất nội dung đánh giá
chứng cứ, tài liệu và lưu hồ sơ nghiệp vụ của Cơ quan điều tra, hồ sơ kiểm sát.
Điều 32. Tạm đình chỉ điều tra
1. Khi
có căn cứ tạm đình chỉ điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp
rà soát chứng cứ, tài liệu bảo đảm việc tạm đình chỉ điều tra có căn cứ, đúng
quy định tại Điều 229, Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trước khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, quyết định tạm đình chỉ
điều tra vụ án đối với bị can, quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can,
Cơ quan điều tra phải xử lý các vấn đề liên quan (nếu có) theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát phải mở sổ theo dõi và quản lý các vụ án, bị can
tạm đình chỉ điều tra. Điều tra viên và Kiểm sát viên thường xuyên rà soát để
thống nhất các vụ án, bị can tạm đình chỉ điều tra. Khi thấy lý do tạm đình chỉ
điều tra không còn thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định phục hồi điều tra vụ
án, phục hồi điều tra bị can. Đối với trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc do thay đổi quy định của pháp luật mà hành vi phạm tội
không bị coi là tội phạm nữa, thì Cơ quan điều tra trao đổi với Viện kiểm sát
trước khi ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Điều 33. Đình chỉ điều tra
1. Khi
có căn cứ đình chỉ điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp rà
soát chứng cứ, tài liệu bảo đảm việc đình chỉ điều tra có căn cứ, đúng quy định
tại Điều 230, Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu thấy đủ
căn cứ thì Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, quyết định đình chỉ điều tra vụ án
đối với bị can, quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can; nếu thấy không đủ
căn cứ thì Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra.
2. Khi
ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối
với bị can, quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, Cơ quan điều tra phải
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã
tạm giữ (nếu có), xử lý vật chứng, những vấn đề khác có liên quan và thực hiện
việc thông báo, gửi cho Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự; đối với biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế do Viện kiểm sát phê
chuẩn, Cơ quan điều tra phải có văn bản thông báo để Viện kiểm sát quyết định
việc hủy bỏ.
Điều 34. Chuyển, giao nhận biên bản, tài liệu trong trường
hợp quy định tại khoản
5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự
1.
Việc chuyển biên bản, tài liệu về hoạt động điều tra mà Viện kiểm sát không
trực tiếp kiểm sát giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong trường hợp quy
định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự được
chuyển giao trực tiếp hoặc được gửi bảo đảm qua dịch vụ bưu chính; trường hợp
do trở ngại khách quan, Điều tra viên không thể chuyển giao biên bản, tài liệu
cho Viện kiểm sát thì có thể chuyển giao bằng hình thức fax.
2.
Trường hợp chuyển giao trực tiếp thì ngày chuyển là ngày lập biên bản giao
nhận.
Trường
hợp gửi bảo đảm qua dịch vụ bưu chính thì ngày chuyển là ngày theo dấu bưu
điện nơi gửi; bì thư gửi biên bản, tài liệu được đưa vào hồ sơ vụ án. Người
trực tiếp nhận biên bản, tài liệu của Viện kiểm sát phải kiểm tra niêm phong;
nếu niêm phong không còn nguyên vẹn thì phải lập biên bản ngay xác nhận tình
trạng, có xác nhận của nhân viên bưu chính và báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát,
đồng thời thông báo ngay cho Cơ quan điều tra để phối hợp giải quyết. Trường
hợp niêm phong còn nguyên vẹn nhưng biên bản, tài liệu thiếu so với bản thống
kê biên bản, tài liệu thì phải báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát để lập biên bản
ngay và thông báo cho Cơ quan điều tra biết để phối hợp giải quyết.
Trường
hợp chuyển giao bằng hình thức fax, ngay sau khi không còn trở ngại khách quan,
Điều tra viên phải chuyển biên bản, tài liệu gốc cho Viện kiểm sát. Kiểm sát
viên phải kiểm tra, đối chiếu, nếu thấy biên bản, tài liệu tiếp nhận đúng với
biên bản, tài liệu nhận được qua bản fax thì xác nhận ngày Cơ quan điều tra đã
chuyển biên bản, tài liệu là ngày Viện kiểm sát nhận biên bản, tài liệu bằng
bản fax.
3.
Việc giao nhận biên bản, tài liệu phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 35. Thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ sơ vụ án
trong giai đoạn điều tra, truy tố
1.
Việc thống kê và đóng dấu bút lục vào biên bản, tài liệu trong hồ sơ vụ án
trong giai đoạn điều tra được thực hiện như sau:
a)
Trước khi chuyển cho Viện kiểm sát biên bản, tài liệu về hoạt động điều tra mà
Viện kiểm sát không trực tiếp kiểm sát, biên bản, tài liệu điều tra để Viện
kiểm sát kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án hoặc hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát xét phê
chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra thì Điều tra viên phải thống kê đầy
đủ tên biên bản, tài liệu, ghi số thứ tự trong bản thống kê biên bản, tài liệu
và đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra (nhưng chưa đánh số bút lục) vào
góc trên bên phải của từng trang biên bản, tài liệu;
b)
Kiểm sát viên đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát (không phải đánh số bút lục) vào
góc dưới bên phải của từng trang biên bản, tài liệu quy định tại điểm a khoản
này và biên bản, tài liệu do Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra
trước khi chuyển cho Cơ quan điều tra.
2.
Việc thống kê, đánh số và đóng dấu bút lục biên bản, tài liệu trong hồ sơ vụ án
khi kết thúc điều tra và trong giai đoạn truy tố được thực hiện như sau:
a) Khi
kết thúc điều tra, các biên bản, tài liệu trong quá trình khởi tố, điều tra do
Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập đều phải đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng
trình tự tố tụng. Điều tra viên đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra ở góc
trên bên phải của từng trang biên bản, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đánh số
bút lục một lần và lập bảng thống kê đầy đủ các biên bản, tài liệu theo thứ tự
từ 01 cho đến hết. Quá trình đóng dấu và đánh số bút lục, nếu có sự nhầm lẫn
hoặc tẩy xóa bút lục thì Điều tra viên phải tổng hợp, ký xác nhận vào bảng
thống kê biên bản, tài liệu và có báo cáo giải trình về lý do việc nhầm lẫn,
tẩy xóa bút lục; báo cáo giải trình của Điều tra viên được đưa vào hồ sơ vụ án;
b)
Trong giai đoạn truy tố, biên bản, tài liệu do Kiểm sát viên thu thập phải được
đưa vào hồ sơ vụ án, đóng dấu bút lục ở góc trên bên phải của từng trang biên
bản, tài liệu và đánh số thứ tự tiếp theo số bút lục trong hồ sơ vụ án do Điều
tra viên chuyển đến; không được thay đổi thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án. Quá
trình đóng dấu và đánh số bút lục, nếu có sự nhầm lẫn hoặc tẩy xóa bút lục thì
Kiểm sát viên phải tổng hợp, ký xác nhận vào bảng thống kê biên bản, tài liệu và
có báo cáo giải trình về lý do việc nhầm lẫn, tẩy xóa bút lục; báo cáo giải
trình của Kiểm sát viên được đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 36. Giao nhận hồ sơ vụ án kết thúc điều tra và vật
chứng
1.
Điều tra viên, Cán bộ điều tra trực tiếp giao hồ sơ, vật chứng (nếu có) cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Việc giao nhận hồ sơ được thực hiện theo quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Thủ
tục giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát được thực hiện
như sau:
a) Vật
chứng đi kèm hồ sơ vụ án là vật chứng được đánh số bút lục đưa vào hồ sơ vụ án
và được chuyển giao cùng hồ sơ vụ án;
b) Đối
với vật chứng không đi kèm hồ sơ vụ án thì khi ra quyết định truy tố, Viện kiểm
sát ra quyết định chuyển vật chứng đến cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp nơi
Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án. Trong thời hạn 02 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định chuyển vật chứng của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra có trách nhiệm
thực hiện các thủ tục bàn giao vật chứng cho cơ quan thi hành án dân sự theo
quyết định chuyển vật chứng của Viện kiểm sát; sau khi giao nhận vật chứng, Cơ
quan điều tra chuyển biên bản giao nhận cùng các tài liệu có liên quan đến việc
giao nhận vật chứng cho Viện kiểm sát để đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 37. Áp dụng một số quy định của Thông tư liên tịch trong
quan hệ phối hợp giữa cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra của Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát
1.
Trường hợp cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra của Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân thay đổi hoặc huỷ bỏ
quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cấp phó, thay đổi cấp phó
trong việc điều tra vụ án hình sự thì được thực hiện như quy định tại Điều 4,
Điều 5 Thông tư liên tịch này.
2. Sau
khi ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án, áp dụng
biện pháp ngăn chặn theo thẩm quyền, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra của Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân phải gửi
ngay các quyết định đó cho Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố để giải quyết
như quy định tại Điều 7, Điều 15 Thông tư liên tịch này. Trường hợp hủy bỏ
quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân thì
Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và yêu
cầu cơ quan đó chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền để tiến hành điều tra.
3. Hồ
sơ đề nghị Viện kiểm sát xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp của người có thẩm quyền quy định tại điểm b, điểm c
khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự và việc xét phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra của Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân được thực hiện theo quy định
tại Điều 10, Điều 15 Thông tư liên tịch này.
4.
Việc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an
nhân dân, trong Quân đội nhân dân đóng dấu bút lục, đánh số bút lục hồ sơ vụ án
và chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án cho Viện kiểm sát hoặc cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại các điều 34, 35 và 36
Thông tư liên tịch này.
Điều 38. Hiệu lực thi hành
Thông
tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2018, thay thế
Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003.
Điều 39. Tổ chức thực hiện
Trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch này, nếu có vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề cần phải hướng dẫn hoặc bổ sung, thì kịp thời phản ánh về Viện kiểm sát nhân dân tối cao để tổng hợp, phối hợp với Bộ Công an và Bộ Quốc phòng xem xét, giải quyết./.