Vi phạm về tố tụng, xác định di sản, chia thừa kế và xem xét phần công sức - Vụ án chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án “V/v tranh chấp chia di sản thừa kế và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là ông Lê Văn Giáp với bị đơn là anh Lê Văn Cường và chị Lê Thị Lan do Tòa án nhân dân tỉnh PT giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2021/DS-ST ngày 21/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tố tụng và nội dung, cụ thể như sau:

Vi phạm về tố tụng, xác định di sản, chia thừa kế và xem xét phần công sức - Vụ án chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

1. Nội dung vụ án và quá trình giải quyết của Tòa án

Cụ Lê Văn Mão (chết năm 1982), cụ Lương Thị Tới (chết năm 1992) có 03 người con là bà Lê Thị Thìn (chết năm 2005, bà Thìn có chồng là ông Nguyễn Đình Thuật chết năm 2009, có 08 người con là Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Thị Thuỷ, Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Thị Thời, Nguyễn Văn Tùng Nguyễn Thị Bách và Nguyễn Thị Thủ), ông Lê Minh Canh và ông là Lê Vãn Giáp. Các cụ có đất thổ cư thuộc tờ bản đồ 05 tại xứ Đồng Ben đỏ thuộc xóm Rằm, xã Tử Đà (nay là xà Bình Phú), huyện PN, tỉnh PT.

Ông Giáp trình bày, khi còn sống, cụ Mão, cụ Tới đã chia đất cho các con. Quá trình sử dụng, phần đất bố mẹ ông cho ông đà bị vợ chồng anh Lê Văn Cường và chị Nguyễn Thị Lan đứng tên sử dụng, bản thân ông và ông Canh, bà Thìn đều không biết. Anh Lê Văn Cường đã xây tường rào, khóa cổng lại không cho ai qua lại thửa đất năm năm nay. Bố mẹ ông chết không để lại di chúc. Ông đề nghị Tòa án chia thừa kế đất, đất vườn, đất màu, đất nông nghiệp của cụ Lê Văn Mão và cụ Lương Thị Tới cho ông; ông Lê Minh Canh và bà Lê Thị Thìn gồm 07 thửa đất là thửa số 135, 247, 310, 311, 312, 314, 315 tờ bản đồ số 5, xã Tử Đà (nay là xã Bình Phú), huyện PN, tỉnh PT; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 310, diện tích 311 m2; thửa số 312, diện tích 303m2; thửa số 315, diện tích 340m2 đều đứng tên bà Nguyễn Thị Duyên; thửa đất 311, diện tích 391m2 đứng tên anh Lê Văn Cường.

Bị đơn là anh Lê Văn Cường và chị Nguyễn Thị Lan và người đại diện theo ủy quyền không đồng ý với yêu cầu của ông Lê Văn Giáp vì đất của cụ Mào và cụ Tới hiện do anh Lê Văn Hùng và chị Lê Thị Loan (em trai và chị gái ruột của anh Cường) đang quan lý, sử dụng. Anh chị đang sử dụng đất được nhà nước giao. Anh chị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Giáp về việc huỷ toàn bộ Giấy chứng nhận QSD đất của gia đình và chia di sản thừa kế. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

2. Nội dung cần rút kinh nghiệm

2.1. Về tố tụng:

Vụ án có các đương sự là những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Thanh, chị Nguyễn Thị Thủy, chị Nguyễn Thị Thủ, chị Nguyễn Thị Bích, chị Nguyễn Thị Thế, anh Nguyễn Xuân Thu, anh Nguyễn Xuân Tùng (là các con bà Lê Thị Thìn). Những người này ủy quyền cho chị Nguyễn Thị Thủ theo giấy ủy quyền ngày 15/3/2020. Tuy nhiên, Giấy ủy quyền này lại do ông Bùi Đức Anh - Phó trưởng công an xã xác nhận chị Bách, chị Thúy, chị Thủ, chị Thế, anh Thu có hộ khẩu thường trú tại xã Bình Phú, huyện PN, tỉnh PT. Kết quả xác minh ngày 31/12/2020, ông Là Tiến Đăng - Trưởng Công an xã cung cấp từ tháng 8/2020, anh Nguyễn Xuân Tùng đã bỏ đi khỏi địa phương, không thông báo cho công an xã nên không biết hiện giờ anh Tùng ở đâu, làm gì. Như vậy, giây ủy quyền gồm cả ủy quyền của anh Tùng nhưng thực tế anh Tùng không ở địa phương, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận giấy ủy quyền nêu trên và không thực hiện các thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng đối với anh Tùng là vi phạm quy định tại Điều 179, 181 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, hồ sơ chỉ có các bản tự khai của các bên đương sự, trong đó có một số nội dung mâu thuẫn nhau nhưng Tòa án không lấy lời khai của tất cả các bên đương sự, đại diện UBND xã Bình Phú, UBND huyện PN; tiến hành việc đối chất để có căn cứ vững chắc khi giải quyết vụ án là vi phạm quy định tại các Điều 97, 98, 99, 100, 105, 106 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngoài ra, hồ sơ vụ án không có quyết định phân công hội thẩm nhân dân là ông Nguyễn Ngọc Thăng, ông Nguyễn Bá Điền; quyết định phân công thư ký tòa án Nguyễn Thị Quỳnh Nga tiến hành tố tụng là vi phạm điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật tố tụng dân sự.

2.2. về xác định di sản, chia thừa kế và xem xét phần công sức

Các thửa đất tranh chấp gồm thửa 135 diện tích 550m2, thừa số 314 diện tích khoảng 225m2, thửa số 247 diện tích 362m2 và thửa số 311 diện tích 391m2 đất lâm nghiệp, thửa số 310, diện tích 212m2 đất lâm nghiệp, thửa số 312 diện tích 303m2 và thửa số 315 diện tích 340m2 đất đám mạ. Các đương sự thừa nhận thửa số 135, 314 là di sản của cụ Mào, cụ Tới để lại. Các thửa 247, 310, 311,312, 315 không có tài liệu chứng minh anh Cường được giao đất, đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh Cường ghi do ông cha để lại. Do đó Tòa án sơ thẩm xác định các thửa đất 135, 314, 247 là di sản cụ Mão, cụ Tới để lại là có căn cứ.

Đối với các thửa 311, 310, 312, 315 thì thửa 311 anh Cường và người đại diện theo ủy quyền khai do vợ chồng anh Cường khai phá, sử dụng ổn định trước năm 1999 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001. Hồ sơ vụ án không có tài liệu, chứng cứ chứng minh thửa đất của cụ Mão, cụ Tới. Thửa số 310, 312, 315 hiện đứng tên chủ sử dụng là hộ bà Đỗ Thị Duyên (bà Duyên, mẹ anh Cường đã chết). Bản đồ 299 ghi nhận các thửa đất này là loại đất màu đồi (ĐMđ), người đại diện của anh Cường, chị Loan khai đất trước đây của hợp tác xã, sau đó bà Duyên sử dụng và hộ bà Duyên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lời khai này phù hợp với cung cấp của đại diện UBND xã Bình Phú về việc sử dụng đất, đồng thời đại diện theo ủy quyền của UBND huyện PN cũng cho rằng việc khẳng định các thửa đất nông nghiệp của cụ Mão, cụ Tới là không có cơ sở.

Như vậy, không có chứng cứ, tài liệu chứng minh các thửa đất số 310, 311, 312, 315 là của cụ Mão, cụ Tới những Bản án sơ thẩm lại xác định các thửa đất này là di sản thừa kế của hai cụ để lại để chia thừa kế là không đúng. Khi chia thừa kế, Tòa án cấp sơ thẩm không chia thừa kế theo giá trị để xác định giá trị từng người thừa kế được hưởng cụ thể là bao nhiêu và phần giá trị chênh lệch tài sản giữa các đương sự; không chia hiện vật theo quy định của pháp luật mà giao đất theo thỏa thuận của nguyên đơn và những người liên quan, không có sự đồng ý của bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.

Về phần công sức, Bà Duyên, anh Cường, chị Lan, anh Hùng là những người quản lý, sử dụng đất từ trước đến nay nên có công sức trông nom, quản lý, tôn tạo di sản. Bản án sơ thẩm chỉ áng chừng công sức duy trì, tôn tạo cho vợ chồng anh Cường, chị Lan và cho rằng anh Cường, chị Lan được hưởng thừa kế nhiều hơn nên trừ vào việc bảo quản di sản, không được thanh toán chênh lệch tài sản là không đúng, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Với những vi phạm nêu trên, tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tại Hà Nội, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2021/DS-ST ngày 21/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh PT để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Vậy, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu lên để rút kinh nghiệm ' chung, nhằm giảm thiếu số lượng các vụ án bị cải sửa, hủy do những vi phạm tường tự xảy ra, nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}