Rút kinh nghiệm vụ án dân sự Đòi lại quyền sử dụng đất cho ở nhờ

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm ; Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 9) thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm của bản án sơ thẩm, phúc thẩm giái quyết vụ án “Đòi lại quyền sử dụng đất cho ở nhờ” giữa nguyên đơn Cụ Lê Phiên (tức Lê Phước Phiên), chế năm 2012, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Cụ Phiên gồm: Bà M Thị Gái, bà Lê Thị Gái Em, bà Lê Thị Hưởng, bà Lê Thị Xốm, bà Lê Thị Hòa, bà Lê Thị Xi Em. ông Lê Phước Hùng (chết năm 2011), người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Hùng gồm: Bà Nguyễn Thị Vân, anh Lê Phước Dũng, anh Lê Phước Sỳ, anh Lê Phước Tư, chị Lê Thị Mộng Ni, chỉ Lê Thị ThỦy với bị đơn ông Huỳnh Trọng Ngọc (Dùng) và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Bà Tổng Thị Đào, anh Trần Văn Viết, chị Huỳnh Thị Nhung, anh Phạm Vân Hương (Hiền), chị Lê Thị Bé, anh Nguyễn Hữu Tấn, anh Nguyễn Hữu Nghị, bà Tống Thị Huệ (tức Xí)

I. Tóm tắt nội dung vụ án

- Nguyên đơn Cụ Lê Phiên, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của Cụ Phiên ủy quyền cho bà Lê Thị Xốm trình bày: Năm 1936, cố Nguyễn Thị Tâm (mẹ của Cụ Lê Phiên) có một thửa đất mang số ký hiệu A23O, diện tích 01 sào 03 thước 09 tấc (tương đương 628m2), loại đất ở tọa lạc tại thôn Bình An 1. xã LV, huyện PL, tỉnh TTH. Năm 1957 Cụ Tâm chết, để lại thửa đất trên cho Cụ Phiên sử dụng  trồng hoa màu. Năm 1982 ông Huỳnh Trọng  Ngọc đã  hỏi mượn Cụ Phiên thửa đất này để làm nhà ở với cam kết sẽ trả lại khi Cụ Phiên có nhu cầu sử dụng đất, việc Cụ Phiên cho mượn đất chỉ bằng miệng, không viết giấy tờ. Từ năm 1987 đến năm 2009, Cụ Phiên có nhiều đơn khiếu nại yêu cầu ông Ngọc trả đất, nhưng chưa được chính quyền địa phương giải quyết. Năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện PL đã thu hồi 490.4m2 (một phần diện tích đất nêu trên) để mở đường ven biển CD, có bồi thường sổ tiền 17.654.000 đồng (do vợ chồng ông Ngọc khai nhận). Cụ phiên yêu cầu Tòa án buộc ông Ngọc trả lại 176m2 đất còn lại và số tiền 17.654.000 đồng. 

Cụ Phiên chết ngày 10/10/2012, những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của Cụ Phiên tiếp tục yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Ngọc phải trả lại diện tích 113m2 đất (theo kết quả đo đạc định giá ngày 15/8/2014) cùng số tiền 17.654.000 đồng và tiền lãi tính từ tháng 5/2004 đến Năm 2014 là 21.000.000 đồng.

- Bị đơn  ông Huỳnh Trọng Ngọc trình bày: Thửa đất tranh chấp có nguồn gốc của cố Tâm (mẹ của Cụ Phiên). Năm 1982, ông được Cụ Phiên cho thửa đất này để làm nhà ở, việc Cụ Phiên cho đất chỉ nói miệng, không viết giấy tờ. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng ông đã dựng  lại ngôi nhà rường vào năm 1985, xây nhà kiên cố vào năm 2002 và đã đăng ký kê khai, nộp thuế đất từ năm 1997. Ông có hỗ trợ cho Cụ Phiên 03 lần với tổng số tiền 3.000.000 đồng và 01 chỉ vàng. Năm 2002, ông đề nghị Cụ Phiên viết giấy cho đất thì bố ông đến gặp ông Lê Phước Hùng (con trai Cụ Phiên) để lập văn bản. Ngày 10/3/2002, ông Hùng ký văn bản với nội dung ông Hùng chuyển nhượng toàn bộ thửa đất trên cho vợ chồng ông và ông có đưa cho ông Hùng 500.000 đồng, có ông Hồ Xuân Tý chứng kiến. Năm 2004, Nhà nước thu hồi 490,4m2 đất để làm đường. Sau khi nhận tiền đền bù, ông đã chuyển đi nơi khác. Đối với diện tích đất còn lại, ông đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh Phạm Văn Hương 45m2, chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hữu Nghị 45m2, phần đất còn lại ông cho vợ chồng chị Huỳnh Thị Nhung (con gái ông) sử dụng. Ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn .

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Tổng Thị Đào (vợ ông Ngọc) thống nhất với trình bày của ông Ngọc.

2. Chị Huỳnh Thị Nhung, anh Trần Văn Viết trình bày: Năm 2007, anh chị kết hôn, được vợ chồng ông Ngọc (cha mẹ chị Nhung) cho 86m2 đất (đo thực tế 57m2) để làm nhà ở. Anh chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì hiện nay anh chị không có chỗ ở nào khác.

3. Anh Phạm Văn Hương, chị Lê Thị Bé trình bày: Năm 2004, vợ chồng ông Ngọc chuyển nhượng cho anh chị 45m2 (đo thực tế 30m2) với giá 8.000.000 đồng. Anh chị đã làm nhà tạm để ở và kinh doanh trên diện tích đất này. Anh chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo pháp luật.

4. Ông Nguyễn Hữu Nghị, bà Tống Thị Huệ (Xí) trình bày: Năm 2008, vợ chồng ông Ngọc chuyển nhượng cho ông bà 45m2 đất (do thực tế 26m2) với số tiền 23.000.000 đồng. Ông bà đã cho con trai là anh Nguyễn Hữu Tân làm quán sửa xe đạp và chăn nuôi từ đó đến nay. Ông bà đề nghị Tòa án xem xét và giải quyết theo pháp luật

2. Quá trình giải quyết của Tòa án

2.1. Tại Bản án dân sự sơ thẩm  số 19/2012/DS-ST ngày 17/8/2012, Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ; buộc vợ chồng ông Ngọc trả lại cho Cụ Phiên số tiền đền bù 17.654.000 đồng và giá trị 125m2 đất là 37.000.000 đồng, tổng cộng là 55.000.000 đồng; Cụ Phiên phải thanh toán công sức bổi bổ, cải tạo đất cho ông Ngọc là 31.000.000 đồng. Sau khi khấu trừ thì ông Ngọc còn phải thanh toán cho Cụ phiên số tiền là 23.654.000 đồng.

2.2. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 37/2012/DS-PT ngày 28/12/2012, Tòa án nhân dân tỉnh TTH quyết định: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm  số 19/2012/DSST ngày 17/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện PL, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH để xét xử sơ thẩm lại.

2.3. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2013/DS-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn. Buộc vợ chồng ông Ngọc trả cho phía nguyên đơn  số tiền đền bù 17.654.000 đồng và giá trị của 125m2 đất là 24.125.000 đồng, tổng cộng là 41.779.000 đồng; những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn  phải thanh toán cho bị đơn tiền cải tạo, bồi bổ đất là 11.500.000 đồng và 350.000 đồng (tiền do ông Hùng nhận của ông Ngọc). Tổng cộng là 11.850.000 đồng. Sau khi khấu trừ ông Ngọc, bà Đào phải trả cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Phiên số tiền 29.929.000 đồng.

Tạm giao cho ông Ngọc, bà Đào quyền sử dụng 125m2 đất tọa lạc tại thôn Bình An, xã LV, huyện PL. tỉnh TTH (có sơ đồ kèm theo).

2.4. Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2014/DS-PT ngày 13/01/2014, Tòa án nhân dân tỉnh TTH quyết định; Hủy bản án dân sự sơ thẩm Số 46/2013/DS-ST ngày 24/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện PL xét xử sơ thẩm tại.

2.5. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015, của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn  Buộc bị đơn  và những người liên quan tháo dỡ các công trình để trả lại phần đất 113m2 cho nguyên đơn  và buộc bị đơn  trả cho nguyên đơn  sỏ tiền 33.145.385 đồng (bao gồm: Tiền đền bù đất bị đơn  đã nhận Ị 7.645.000 đồng và tiền lãi từ 2004 đến khi xét xử sơ thẩm là 15.491.000 đồng). 

Ngày 12/11/2015, ông Ngọc, bà Đảo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn  đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự sơ thẩm  số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH.

2.6. Tại Quyết định kháng nghị giám đốc  thẩm số 52/2017/KN-DS ngày 20/6/2017, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH.

2.7. Tại Quyết định giám đốc thẩm  số 72/2017/DS-GĐT ngày 04/8/2017, Uy ban Thẩm phán Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh TTH; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện PL. tỉnh TTH xét xử sơ thẩm lợi.

Tại Quyết định số 3191/QĐ-LHS ngày 17/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh TTH quyết định lấy hồ sơ vụ án dân sự trên đe giải quyết theo trình tự sơ thẩm.

2.8. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh TTH quyết định:

- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tù tụng của nguyên đơn  (Cụ Lê Phiên) vẻ việc yêu cầu ông Huỳnh Trọng Ngọc phải trả lại diện tích 1 ỉ 3m} đất; yêu cầu ông Ngọc trả lại số tiền 17.654.000 đồng và lãi suất của số tiền này kể từ tháng 5/2004 đến năm 2014 với số tiền là 21.000.000 đồng; yêu cầu ông Ngọc phải liên đới cùng anh Phạm Văn Hương, chị Lê Thị Bê; anh Trần Văn Viết, chị Huỳnh Thị Nhung: ông Nguyễn Hữu Nghị, bà Tống Thị Huệ và anh Nguyễn Hữu Tấn phải thảo dỡ bỏ các công trình trên diện tích 113m: đất đế trả lại diện tích đất này cha những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.

- Tạm giao cho ông Ngọc, bà Đảo được quyền sử dụng mảnh đất tọa lạc tại thôn Bình An, xã LV, huyện PL, tỉnh TTH (có sơ đồ kèm theo), Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật ông Ngọc bà Đào có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền đề kê khai, điều chỉnh và đáng kỷ lại quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/5/2018, bà Lề Thị Sốm (đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn) có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.

2.9. Tại Bản án dân sự phúc thẩm  số 122/2012/DS-PT ngày 24/5/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh TTH.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lê Thị Sốm có đơn  đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

2.10. Ngày 19/8/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 05/QĐKNGĐT-VKS-DS khổng nghị giám đốc  thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm  số 122/2018/DSPT ngày 22/8/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc  thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/20Ỉ8/DSST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh TTH xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

2.11. Tại Quyết định giám đốc  thám sổ 14&020/DS-GĐT ngày 20/02/2020, 1 hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm sổ Ỉ22/20Ỉ8/DS-PT ngày 22/8/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh TTH.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân rinh TTH xét xử lại theo thủ tục sơ thám, đứng quy dinh của pháp luật.

3. Những vấn đề Cần rút kinh nghiệm

Thứ nhất: Thửa đất số A230 diện tích 628 m2, tọa lạc tại thôn Bình An 1, xã LV, huyện PL, tỉnh TTH có nguồn gốc của cổ Nguyễn Thị Tâm (mẹ của Cụ Lê Phiên) theo Bản trích lục địa bộ ngày 15/8/1936. Các đương sự đều xác nhận, cố Tâm chết (1957), Cụ Phiên thửa hường, sử dụng diện tích đất nêu trên. Đối với Cụ Phiên, chưa bao giờ từ bỏ quyền sử dụng thửa đất A230 do cố Tâm (mẹ Cụ Phiên) để lại cho Cụ Phiên, được chứng minh sự việc ông Ngọc đề nghị Cụ Phiên viết giấy cho đất, nhưng Cụ Phiên không đồng ý và Cụ Phiên có nhiều đơn khiếu nại yêu cầu ông Ngọc trả đất. Ngoài ra, Cụ Phiên có Bản trích lục địa bộ thửa đất số A230 đứng tên cố Tâm, đây là loại giấy tờ được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, do dó Cụ Phiên có đủ điều kiện để đòi lại quyền sử dụng đất.

Cụ Phiên và bà Lê Thị Sốm (đại diện những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Cụ Phiên) cho rằng: Năm 1982, Cụ Phiên cho ông Huỳnh Trọng Ngọc mượn thửa đất A230 làm nhà ở, hai ben cam kết khi nào Cụ Phiên lấy lại thì ông Ngọc sẽ trả, việc cho mượn không làm giấy tờ gì. Từ năm 1987 đến năm 2009 Cụ Phiên viết nhiều đơn khiếu nại yêu cầu ông Ngọc trả đất, ông Ngọc không đồng ý trả lại đất, chỉnh quyền xà LV, huyện PL hỏa giải không được. Năm 2004, ủy ban nhân dân huyện PL mở đường ven biển Cánh Dương thu hồi 490,4m2 đất một phần thửa A230, đến bù 17.654.000 đồng (ông Ngọc nhận số tiền này). Cụ Phiên chết năm 2012, bà Sốm tiếp tục yêu cầu vợ chồng ông Ngọc phải trả lại diện tích còn lại của thửa đất A 230 là 113m2 và số tiền đến bù 490,4m2 đất lồ 17,654.000 đồng.

Thử hai: Ông Ngọc thừa nhận thửa đất đang tranh chấp là của Cụ Phiên, nhưng ông Ngọc cho rằng, Cụ Phiên đã cho vợ chồng ông thửa đất này từ năm 1982, việc cho đất không làm giấy tờ. Khi nhà nước thu hồi 409,4m2 đất để mở đường, ông Ngọc có nhận số tiền đền bù 17.654.000 đồng, số đất còn lại ông Ngọc đã / chuyển nhượng cho vợ chồng anh Phạm Văn Hương 45 m2, vợ chồng Ông Nguyễn Hữu Nghị 45m2, còn lại 86 m2 cho vợ chồng chị Huỳnh Thị Nhung là con gái Ngọc. Ông Ngọc khai trong quá trình sử dụng đất đã nhiều lần hỗ trợ cho Cụ Phiên tiền và xăng, tổng cộng 3.000.000 đồng và 01 chỉ vàng, việc giao tiền vàng không viết giấy tờ biên nhận. Tuy nhiên ông Ngọc có nhiều lời khai không thống nhất về việc giao tiền, vàng cho Cụ Phiên (có lúc khai giao 4.000.000 đồng, 1 chỉ vàng; có lúc khai giao 3.000.000 đồng. 1 chỉ vàng), mâu thuẫn về số lần giao (có lúc khai giao 2 lần; có lúc khai giao 3 lần), mâu thuẫn về thời điểm giao (đối với 1 chỉ văng: Khai giao lần đầu tiền; có lúc khai giao năm 2000; có lúc khai giao năm 2001; cổ lúc khai giao năm 2004. Đối với tiền: có lúc khai giao thời điểm năm 1998-1999; có lúc khai giao năm 1986; có lúc khai giao vào các năm 1984, 1987, 2001; có lúc khai giao vào năm 1984, 1987; có lúc khai giao vào năm 1984, 1987, 2000; có lúc khai giao vào các năm 1998, 2000). 

Thứ ba: Trong quá trình sử dụng, ông Ngọc kê khai không trung thực về nguồn gốc đất, tại giấy kê khai nhà ở và đất ở ngày 02/01/1997, ông Ngọc kê khai đất là của ông bà để lại; tại tờ khai nguồn gốc đất thu hồi ngày 09/02/2004. ông Ngọc kê khai đất của cha có từ năm 1945 cho con Huỳnh Trọng Ngọc làm nhà năm 1983. Ông Ngọc không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc Cụ Phiên tặng cho vợ chồng ông Ngọc thửa đất trên, ngoài giấy chuyển nhượng đất và nhà ở lặp ngày 10/3/2002 giữa ông Ngọc và ông Lê Phước Hùng (con trai Cụ Phiên); giấy chuyển nhượng lặp ngày 10/3/2002 không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận, đồng thời ông Hùng không phải là người có quyền quản lý, sử dụng hợp pháp thửa đất A 230 và cùng không được sự ủy quyền pháp lý của Cụ Phiên trong việc định đoạt quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, do đó hợp đồng chuyển nhượng không có giá trị pháp lý. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 và Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, ông Ngọc không đủ điều kiện để được công nhận và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Ngoài ra tại biên bản xác minh ngày 02/10/2013, ủy ban nhân dân xà LV xác định vợ chồng ông Ngọc không phải là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất tranh chấp nên việc vợ chồng ông Ngọc ký giấy chuyển nhượng đất cho các hộ đang sử dụng (ông Hương: Năm 2004, ông Tấn: Năm 2006) là trái pháp luật; mặt khác khi vợ chồng ông Ngọc chuyển nhượng đất đang có tranh chấp nên Ủy ban nhân dân xã không xác nhận việc chuyển nhượng đối với các hộ nêu trên.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xác minh, thu thập điểm khiếu nại của Cụ Phiên, chỉ căn cứ một số lời khai của đương sự, để cho rằng ông Ngọc đưa tiền nhiều lần, được ông Hùng thừa nhận, ông Ngọc đã làm nhà trên đất nhưng Cụ Phiên không phản đối, từ đỏ xác định Cụ Phiên đà cho ông Ngọc đất là chưa đủ căn cứ, gây Thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn.

Từ vụ án trên, để nhận diện được các vì phạm lương tự nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự và thực hiện tốt Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc  thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc việc dân sự, hôn nhân và gia dinh) thông báo đỏ các Viện kim sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân Cụp tỉnh biết cùng nghiên cứu rút kinh nghiệm chung.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}