Rút kinh nghiệm vụ án: Tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn

Thông qua công tác kiểm sát xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn ” giữa nguyên đơn là anh Nguyễn Hải Long với bị đơn là Chị Ngô Bích Thùy cùng một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đã bị Uy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy toàn bộ Bản án phúc thâm và một phần Bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thấy cần đưa ra để thông báo rút kinh nghiệm chung, cụ thể như sau.

1. Tóm tắt nội dung vụ án

Theo nguyên đơn là anh Nguyễn Hải Long trình bày: Anh và chị Ngô Bích Thùy được Tòa án nhân dân huyện c giải quyết cho ly hôn theo Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự ngày 27/11/2015. Tại thời điểm đó, tài sản chung của vợ chồng có 232,5m2 thuộc thửa đất số 306, khu đô thị Phú Lộc, thành phố L đã được UBND thành phố L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết là giấy CNQSDĐ) ngày 30/3/2015 mang tên chị Ngô Bích Thùy nhưng cả hai bên chưa yêu cầu tòa án giải quyết nội dung chia tài sản này.

Nguồn gốc hình thành tài sản chung là do vợ, chồng nhận chuyển nhượng của Công ty Hoàng Dương bằng nguồn tiền vợ chồng tích góp trong quá trình chung sống và hai bên gia đình hỗ trợ, trong đó mẹ đẻ của anh là bà Nguyễn Thị Kim Nguyên cho 300.0.00.000 đồng. Do anh thường xuyên công tác xa nhà nên toàn bộ việc giao dịch nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các thủ tục kê khai, đăng ký đều do chị Thùy thực hiện. Vì vậy, anh yêu cầu Tòa án giải quyết chia đôi thửa đất bằng hiện vật, mỗi người được hưởng 1/2 diện tích đất trên.

Bị đơn là chị Ngô Bích Thùy trình bày: Chị kết hôn với anh Long khi chị vẫn đang đi học, chưa có việc làm. Anh Long thường xuyên đi xa nhà nên chị sống cùng mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Dung. Khi kết hôn anh, chị được tặng 3 cây vàng và khoảng 100.000.000 đồng. Số tiền mặt đã chi tiêu hết. Hàng tháng, anh Long gửi cho chị khoảng 3 đến 5 triệu đồng để nuôi con và chi phí sinh hoạt trong gia đình. Do đó, trong thời kỳ hôn nhân, hai vợ, chồng không có tài sản chung.

Về thửa đất số 306 là tài sản của bà Nguyễn Thị Dung (mẹ đẻ của chị), nhờ chị ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng và giấy CNQSDĐ, còn việc giao dịch, chuyển tiên đều do bà Dung thực hiện với Công ty Hoàng Dương. Do đó chị Thùy xác định thửa đât số 306 không phải là tài sản chung của vợ, chông nên không thê chia đôi tài sản theo yêu cầu của anh Long. 

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị Dung trình bày: Quyền sử dụng thửa đất sô 306 là tài sản riêng của bà, do bà nhận chuyển nhượng của Công ty Hoàng Dương với số tiền là 1.450.000.000 đồng. Bản thân bà là người mua bán bất động sản nên thường xuyên vắng nhà và do thiếu hiểu biết nên bà nhờ con gái là Ngô Bích Thùy đứng tên trên họp đồng chuyển nhượng và giấy CNQSDĐ. Bà và Công ty Hoàng Dương thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 306 và lập họp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công chúng Ẩn Vượng vào ngày 10/2/2015. Số tiền thanh toán là là tiền riêng của bà rút từ Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Lạng Sơn ngày 3/2/2015 và đã thanh toán đủ cho Công ty Hoàng Dương. Do vậy, bà yêu cầu Tòa án công nhận quyền quản lý, sử dụng của bà đối với thửa đất số 306.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Bà Nguyễn Thị Kim Nguyên trình bày:

Khoảng tháng 02/2015 anh Long có ý định mua nhà, đất nên bà có hỗ trợ cho vợ, chồng anh Long và chị Thủy 300.000.000 đồng. Tháng 4/2015, anh Long có thông tin cho bà biết vợ chồng đã mua được đất tại Khu đô thị Phú Lộc. Bà đề nghị Tòa án xem xét chia thửa đất số 306 của anh Long và chị Thủy theo quy định của pháp luật.

2. Quyết định của Tòa án

Bản án dân sự sơ thẩm ngày 19/07/2018, Tòa án nhân dân thành phố L quyết định:

1/ Xác định thửa đất số 306 là tài sản chung của anh Nguyễn Hải Long và chị Ngô Bích Thùy; tổng giá trị tài sản là: 2.557.500.000 đồng.

2/ Chia tài sản chung như sau: Chị Ngô Bích Thùy có quyền quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích thửa đất nói trên và có trách nhiệm bù chênh lệch về tài sản cho anh Nguyễn Hải Long theo tỳ lệ 6:4; tương ứng với số tiền là 1.023.000.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, anh Long kháng cáo yêu cầu chia tài sản chung bằng hiện vật để đảm bảo về chỗ ở; chị Thùy và bà Dung kháng cáo yêu cầu trả lại quyền sử dụng thửa đất số 306 cho bà Nguyễn Thị Dung.

Tại Bản án phúc thẩm ngày 10/01/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh L đã quyết định sửa một phần Bản án sơ thẩm. Tuyên:

1/ Quyền sử dụng thửa đất số 306 không phải là tài sản chung của anh Nguyễn Hải Long và chị Ngô Bích Thùy.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hải Long về việc yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 306.

3/ Bà Nguyễn Thị Dung có quyền sử dụng thửa đất số 306. Chị Thủy và bà Dung có nghĩa vụ thực hiện thủ tục xác nhận thay đôi thông tin vê người sử dụng đất ghi trên Giấy CNQSDĐ do UBND thành phố L cấp ngày 30/3/2015 theo quy định của pháp luật đất đai.

Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Nguyễn Hải Long có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 35/2018/KN-HNGĐ ngày 28/11/2018, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã kháng nghị Bản án phúc thâm của Tòa án nhân dân tỉnh L theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị ủy ban Thầm phán tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Thứ nhất: về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng:

Các đương sự trình bày không thống nhất về nguồn gốc hình thành khối tài sản chung của vợ chồng. Anh Long và bà Nguyễn Thị Kim Nguyên cho rằng vợ, chồng anh Long đã nhận chuyển nhượng của Công ty Hoàng Dương thửa đất 306 với giá 706.000. 000 đồng bằng nguồn tiền tích góp trong quá trình chung sống và tiền do hai bên gia đình hỗ trợ, trong đó bà Nguyên cho 300.000.000 đồng. Do anh Long thường xuyên công tác xa nhà nên toàn bộ việc giao dịch nhận chuyển nhượng và làm các thủ tục kê khai, đăng ký đều do chị Thùy thực hiện. Chị Thùy và bà Nguyễn Thị Dung thì cho rằng giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế là 1.450.000.000 đồng và nguồn tiền là của bà Dung, chị Thùy chi đứng tên hộ bà Dung trong hợp đồng chuyển nhượng và hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, tại Hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/02/2015 và Hóa đơn nộp tiền ngày 10/02/2015 của Công ty Hoàng Dương đều xác định giá trị chuyển nhượng của thửa đất là 706.000.000 đồng và chị Thùy là người trực tiếp giao dịch, ký nộp tiên cho Công ty cũng như trực tiếp kê khai hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định thừa đất số 306 là tài sản chung của vợ chồng anh Long là có căn cứ, phù họp quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị Thùy và bà Dung cung cấp 01 “Giấy thỏa thuận đứng tên tài sản” ghi ngày 01/04/2015 và “Biên bản thỏa thuận nhờ đứng tên hộ chủ sở hữu thửa đất” ghi ngày 10/2/2015 cùng 01 phiếu sao kê tài khoản chi tiết ghi ngày 03/2/2015 thể hiện bà Dung có rút số tiền 1.500.000.000 đồng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương thành phố Lạng Sơn. Tuy nhiên, tại các biên bản ghi lời khai ngày 17/6/2016 của những người làm chứng là chị Tô Thị Hòa Bình, chị Đào Thị Thanh Thủy và chị Nguyễn Thị Mơ đêu xác nhận nội dung “Biên bản thỏa thuận nhờ đứng tên hộ chủ sở hữu thửa đât” được lập sau khi hoàn tất họp đồng chuyển nhượng ngày 10/2/2016 nhưng vẫn được ghi ngày 10/2/2016 để họp thức hóa về mặt thời gian; tại Biên bản tự khai ngày 02/3/2016, chị Thùy khẳng định không lập biên bản nào đối với việc nhờ đứng tên trên họp đồng mua bán và giấy CNQSDĐ. Do các tài liệu, chứng cứ nêu trên mâu thuẫn với lời khai của những người liên quan nên không có giá trị pháp lý. Bà Dung cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác đê chứng minh sô tiên bà rút tại Ngân hàng ngày 03/2/2015 được dùng để thanh toán cho Công ty Hoàng Dương để nhận chuyển nhượng thửa đất 306.

Tại bản án phúc thẩm có nhận định: “Hợp đồng chuyển nhượng cũng như giấy CNQSDĐ chỉ đứng tên chị Thủy nhưng anh Long không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ủy quyền cho chị Thủy nhận chuyển nhượng và kê khai, đăng ký quyền sư dụng đất nên sửa Bản án sơ thẩm, xác định quyền sử dụng 232,5m2 đất thuộc thửa số 306 không phải là tài sản chung của anh Long và chị Thủy mà là tài sản của bà Nguyễn Thị Dung”. 

Từ nhận định trên, Tòa án phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Long về việc chia tài sản chung là không đúng quy định tại khoản 4 Điều 98 Luật đất đai năm 2013 và Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Thứ hai: về xác định công sức đóng góp của vợ chồng đối với tài sản chung:

Quá trình giải quyết vụ án, chị Thùy thừa nhận khi kết hôn với anh Long, chị vẫn đang đi học, chưa có việc làm, quá trình chung sống, thu nhập chính là từ tiền lươmg của anh Long. Cuối năm 2014, chị mới mở cửa hàng bán túi xách nhưng việc buôn bán thua lỗ, không có thu nhập nên chị đã phải đóng cửa hàng. Bà Dung xác định không hỗ trợ về kinh tế cho chị Thùy và anh Long khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Điều đó cho thấy anh Long là lao động chính, có đóng góp lớn hom vào việc hình thành khối tài sản chung của vợ chồng. Tòa án sơ thẩm giao chị Thùy được quyền quản lý, sử dụng toàn bộ thửa đất số 306 và buộc chị có trách nhiệm thanh toán chênh lệch giá trị về tài sản cho anh Long theo tỷ lệ phân chia 4/6, trong đó anh Long được hưởng tương ứng với số tiền 1.023.000.000đ là không đúng quy định của pháp luật, chưa đảm bảo quyền và lợi ích họp pháp của đương sự.

Do Quyết định của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh L có những vi phạm như đã nêu, để đảm bảo quyền và lợi ích họp pháp cho các bên đương sự, ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã huỷ toàn bộ Bản án phúc thẩm và hủy một phần Bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo dạng vi phạm đã phát hiện để các đơn vị trong toàn ngành cùng tham khảo và rút kinh nghiệm trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát.

Previous Post Next Post

{Dân sự}

{Trao đổi nghiệp vụ}